Đây là tháng tăng đầu tiên sau khi suy giảm hai tháng liên tiếp.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, nguyên liệu nhựa nhập khẩu vào Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2019 đạt 933.057 tấn, tương đương 1,36 tỷ USD, tăng 13,5% về lượng và tăng 7,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.
Trong đó, riêng tháng 2/2019 đạt 391.728 tấn tương đương 561,44 triệu USD, giảm 26% về lượng và giảm 27,5% về kim ngạch so với tháng 1/2019. So với tháng 2/2018 thì tăng 20,1% về lượng và tăng 8,7% về kim ngạch.
Tuy lượng và kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu nhựa tăng so với cùng kỳ, nhưng giá nhập khẩu lại giảm 5,5%, đạt 1.462,2 USD/tấn. Trong tháng 2/2019 giá nhập khẩu đạt 1.433,2 USD/tấn, giảm 2% so với tháng trước đó và giảm 9,5% so với cùng tháng năm 2018.
Ước tính tháng 3/2019 nhập khẩu 600 tấn nguyên liệu nhựa, đạt 850 triệu USD, tăng 20,9% về lượng và tăng 4,3% về kim ngạch so với tháng 2/2019. Tính chung cả quý 1/2019 đạt 1,53 triệu tấn, tương đương 2,21 tỷ USD, tăng 14,9% về lượng và tăng 4,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu tháng 3/2019 đạt 1.417 USD/tấn, giảm 1,2% so với tháng 2/2019. Tính trung bình cả 3 tháng, giá đạt 1.444 USD/tấn, giảm 9,4% so với cùng kỳ.
Lượng nguyên liệu nhựa nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất có xuất xứ từ thị trường Hàn Quốc tăng 8,6% về lượng và tăng 4,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, đạt 165.698 tấn, trị giá 266,21 triệu USD, chiếm 17,6% trong tổng lượng và chiếm 19,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu nhựa của cả nước. Giá nhập khẩu từ thị trường này giảm 4%, đạt 1.606,6 USD/tấn.
Nguyên liệu nhựa nhập khẩu từ thị trường Đông Nam Á về Việt Nam tăng 7,1% về lượng và tăng 3,5% về kim ngạch, đưa thị trường này lên vị trí thứ 2 về cung cấp nguyên liệu nhựa cho Việt Nam, với 186.342 tấn, tương đương 254,22 triệu USD, chiếm 20% trong tổng lượng và chiếm 18,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu nhựa của cả nước. Giá nhập khẩu nguyên liệu nhựa từ thị trường này giảm 3,4%, đạt 1.364,3 USD/tấn.
Tiếp sau đó là thị trường Saudi Arabia với 157.844 tấn, trị giá 174,53 triệu USD, chiếm 16,9% trong tổng lượng và chiếm 12,8% tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên liệu nhựa của cả nước, so với cùng kỳ năm 2018 giảm 8,7% về lượng và giảm 17,3% về kim ngạch. Giá nhập trung bình giảm 9,4%, đạt 1.105,7 USD/tấn.
Nguyên liệu nhựa nhập khẩu từ thị trường Đài Loan tăng 3,2% về lượng và kim ngạch tăng 2,3%, giá nhập khẩu giảm 0,9%, đạt 109.889 tấn, tương đương 172,98 triệu USD, giá 1.574 USD/tấn.
Trong 2 tháng đầu năm 2019, nhập khẩu nguyên liệu nhựa từ thị trường Mỹ nổi bật lên với mức tăng kim ngạch mạnh nhất so với cùng kỳ năm ngoái, tăng 448,5% về lượng và tăng 228% về trị giá, đạt 92.530 tấn, tương đương 122,92 triệu USD. Nhập khẩu từ thị trường Brazil cũng tăng mạnh 81,7% về lượng và tăng 77,5% về trị giá, đạt 169 tấn, tương đương 0,43 triệu USD.
Ngược lại, nguyên liệu nhựa nhập khẩu từ thị trường Nga sụt giảm mạnh nhất 99,3% về lượng và giảm 93,4% về kim ngạch so với cùng kỳ, đạt 9 tấn, tương đương 0,1 triệu USD. Lượng nhập khẩu cũng giảm mạnh từ thị trường Nam Phi, Nga, Tây Ban Nha, với mức giảm tương ứng 65,9%, 41,5%, và 53,4%.
Nhập khẩu nguyên liệu nhựa 2 tháng đầu năm 2019
ĐVT: USD
Thị trường | 2T/2019 | +/- so với cùng kỳ (%) | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng cộng | 933.057 | 1.364.326.233 | 13,53 | 7,26 |
Hàn Quốc | 165.698 | 266.213.423 | 8,58 | 4,23 |
Saudi Arabia | 157.844 | 174.533.196 | -8,73 | -17,31 |
Đài Loan (TQ) | 109.889 | 172.979.171 | 3,19 | 2,31 |
Trung Quốc đại lục | 90.500 | 161.821.385 | 21,36 | 12,34 |
Thái Lan | 102.073 | 133.150.708 | 6,08 | -0,02 |
Mỹ | 92.530 | 122.917.510 | 448,46 | 228,01 |
Nhật Bản | 36.753 | 78.515.017 | 21,8 | 22,37 |
Singapore | 35.009 | 49.162.980 | 8,15 | 1,72 |
Malaysia | 32.586 | 49.042.011 | 18,49 | 16,52 |
Ấn Độ | 23.931 | 28.752.903 | 22,62 | 17,85 |
U.A.E | 22.794 | 26.918.396 | 42,7 | 28,2 |
Indonesia | 16.192 | 20.688.442 | -3,85 | 4,76 |
Đức | 2.935 | 15.318.237 | -16,69 | -22,47 |
Kuwait | 11.002 | 12.119.696 | -27,75 | -33,74 |
Qatar | 8.729 | 10.108.281 | 9,07 | 3,59 |
Italia | 1.214 | 3.943.286 | 45,39 | 66,78 |
Bỉ | 1.469 | 3.287.814 | -3,42 | -14,39 |
Australia | 1.910 | 3.035.643 | -32,2 | -19,94 |
Tây Ban Nha | 1.279 | 2.891.970 | -53,39 | -34,25 |
Hà Lan | 1.273 | 2.581.498 | 4,6 | -10,62 |
Philippines | 482 | 2.176.073 | -57,5 | -8,59 |
Nam Phi | 1.611 | 1.994.161 | -65,93 | -66,66 |
Pháp | 453 | 1.926.232 | 15,27 | -9,64 |
Canada | 1.407 | 1.541.217 | 43,43 | 18,48 |
Anh | 316 | 1.198.852 | -41,48 | -40,26 |
Hồng Kông (TQ) | 811 | 1.165.211 | -5,81 | -30,48 |
Thụy Điển | 144 | 475.019 | 22,03 | -0,6 |
Brazil | 169 | 426.767 | 81,72 | 77,5 |
Nga | 9 | 97.572 | -99,26 | -93,35 |
(Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Đây là tháng tăng đầu tiên sau khi suy giảm hai tháng liên tiếp.
Sau khi sụt giảm ở tháng 2/2019, sang tháng 3/2019 kim ngạch xuất khẩu giấy và sản phẩm đã lấy lại đà tăng trưởng với mức tăng mạnh 81,9% so với tháng 2/2019 đạt khoảng 90 triệu USD.
Quý 1/2019 nhập khẩu máy vi tính, điện tử và linh kiện ước đạt 11,7 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trung Quốc luôn luôn là đối tác lớn nhất nhập khẩu máy vi tính sản phẩm điện tử của Việt Nam, chiếm 24,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Theo số liệu từ Tổng Cục Hải quan Việt Nam, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng là nhóm hàng đứng đầu về kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2019, chiếm tới 15,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của cả nước, trị giá 5,52 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2018.
2 tháng đầu năm 2019 nhập khẩu nhóm hàng vải đạt 1,79 tỷ USD, tăng nhẹ 0,6% so với cùng kỳ năm 2018.
Ước tính, cán cân thương mại hàng hóa quý 1/2019 của Việt Nam thặng dư 536 triệu USD, thấp hơn nhiều so với mức 2,7 tỷ USD của cùng kỳ năm 2018...
Tuy kim ngạch chỉ đạt 14,88 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2019, nhưng so với cùng kỳ nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện từ Ấn Độ lại có tốc độ tăng vượt trội, gấp 5,9 lần (tức tăng 496,78%).
Sau khi sụt giảm ở tháng 2/2019, thì nay sang tháng 3/2019 kim ngạch xuất khẩu hàng mây, tre, cói và thảm đã tăng mạnh trở lại, tăng gấp 2 lần (tức tăng 106,5%) so với tháng trước đạt 45 triệu USD.
Là mặt hàng dẫn đầu kim ngạch xuất khẩu của cả nước, điện thoại và linh kiện chiếm 18,6% tổng kim ngạch, đạt 6,75 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm 2019, riêng tháng 2/2019 đạt 3,46 tỷ USD. Sang tháng 3/2019 ước tính kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vẫn tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu đạt 5,3 tỷ USD nâng kim ngạch quý 1/2019 lên khoảng 12 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2018.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự