tin kinh te
 
 
 
rss - tinkinhte.com

Tin Việt Nam - tin trong nước đọc nhanh sáng 03-08-2016

  • Cập nhật : 03/08/2016

Hưng Yên đề xuất xây tuyến đường liên tỉnh nối với Hà Nội

Tuyến đường có vai trò rất quan trọng, kết nối trực tiếp khu vực Đông Nam Hà Nội với tỉnh Hưng Yên, giảm tải lưu lượng xe trên tuyến Quốc lộ 5, rút ngắn lộ trình từ thành phố Hà Nội đi Hưng Yên xuống khoảng 40km (trước đây là 60km).

Theo ông Nguyễn Văn Phóng, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hưng Yên, tuyến đường liên tỉnh Hà Nội-Hưng Yên, chiều dài khoảng 21,5km là tuyến trục dọc kết nối giữa thành phố Hà Nội và tỉnh Hưng Yên.

Tuyến đi qua Khu đô thị Ecopark và các huyện Văn Giang, Yên Mỹ, Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên), kết nối vào Quốc lộ 39 và đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng tại nút giao Lý Thường Kiệt, kết nối với đường bộ nối cao tốc Hà Nội-Hải Phòng với cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình.

Hiện trạng tuyến đã được đầu tư khoảng 6km, đoạn từ chân cầu Thanh Trì đến thị trấn Văn Giang (huyện Văn Giang) với quy mô đường cấp 2; đoạn còn lại khoảng 14km từ thị trấn Văn Giang đến ngã tư Dân Tiến (huyện Khoái Châu) giao với Quốc lộ 39 với quy mô đường cấp 3 đồng bằng, nhiều đoạn bị xuống cấp nghiêm trọng.

Cũng theo ông Nguyễn Văn Phóng, hiện nay, lưu lượng phương tiện tham gia giao thông trên tuyến tăng cao, một số đoạn đi qua khu vực thị trấn Văn Giang và khu vực dân cư đông đúc thường xuyên bị ùn tắc, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông. Trước những yêu cầu cấp thiết trên, việc đầu tư xây dựng, nâng cấp tuyến đường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp bách cho tỉnh Hưng Yên và các tỉnh lân cận.

Theo đó, UBND tỉnh Hưng Yên đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ chấp thuận bố trí vốn và cho phép triển khai đầu tư xây dựng, nâng cấp tuyến đường liên tỉnh Hà Nội-Hưng Yên với tổng mức đầu tư dự kiến là 900 tỷ đồng trong thời gian thực hiện từ 2016-2020./.(TBTC)

Hoạt động nuôi trồng thủy sản 7 tháng đầu năm tiếp tục gặp khó khăn

Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), mặc dù sản lượng khai thác thủy sản tăng nhưng hoạt động nuôi trồng thủy sản vẫn gặp khó khăn, nhất là đối với hai sản phẩm chủ lực là cá tra và tôm
Tổng cục Thủy sản cho biết, thời tiết trong các tháng tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy sản, đồng thời giá xăng dầu giảm nên ngư dân tích cực ra khơi bám biển dài ngày, đặc biệt là các vùng xa bờ. Theo đó, 7 tháng đầu năm 2016 sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 1.776 nghìn tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng 7 năm 2016, sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 381 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kì năm trước, đưa tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản 7 tháng đầu năm đạt 1.965 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, hoạt động nuôi trồng thủy sản vẫn gặp khó khăn, giá cá tra nguyên liệu ở Đồng bằng sông Cửu Long giảm mạnh. Diện tích cá tra 7 tháng đầu năm của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long ước đạt 4.237 ha, giảm 2% so với cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch ước đạt 657.169 tấn, tăng 8% so với cùng kỳ do sản lượng của một số tỉnh tăng khá lớn như Tiền Giang, Cần Thơ…

Sản xuất cá tra vẫn chưa thoát khỏi các khó khăn như thời tiết bất lợi, giá cả đầu vào và đầu ra không ổn định, chất lượng con giống không đảm bảo, thị trường xuất khẩu giảm. Do nhiều ao đến kỳ thu hoạch, giá cá tra nguyên liệu thời điểm giữa tháng 7 dao động trong khoảng từ 17.500 – 19.500 đồng/kg, giảm từ 1.500 – 2000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước.

Đối với mặt hàng tôm, nuôi tôm nước lợ vẫn gặp khó khăn do ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn từ những tháng đầu năm. Sản lượng tôm sú trong tháng ước tính đạt 19,9 nghìn tấn, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hiện nay, các cơ quan chức năng đang hoàn thành công tác hỗ trợ thiệt hại cho các hộ nuôi tôm bị ảnh hưởng bởi đợt nắng hạn vừa qua./.(TBTC)

Thủy sản là chỗ dựa cho ngành nông nghiệp tăng trưởng cuối năm

Để lấy lại đà tăng trưởng trong những tháng cuối năm 2016, ngành nông nghiệp cần lựa chọn ngành hàng có lợi thế xuất khẩu và khai thác thị trường mới. Lĩnh vực được coi là còn dư địa phát triển sản xuất lớn nhất hiện nay của ngành nông nghiệp chính là thủy sản.

Theo các chuyên gia, để lấy lại đà tăng trưởng, ngành nông nghiệp cần lựa chọn ngành hàng có lợi thế xuất khẩu và khai thác thị trường mới.

Đóng góp gần 20% GDP cả nước mỗi năm, nhưng trong 6 tháng đầu năm nay, lần đầu tiên lĩnh vực nông, lâm, thủy sản của nước ta đạt mức tăng trưởng âm 0,18%. Tổng giá trị sản xuất toàn ngành ước đạt khoảng 398 nghìn tỷ đồng, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Vì sao có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng lĩnh vực nông lâm thủy sản và ngành nông nghiệp lại gặp cảnh sụt giảm sản xuất và giá trị?

Theo các chuyên gia ngành nông nghiệp, hạn mặn do Elnino và thị trường tiêu thụ khó khăn là 2 nguyên nhân chính dẫn tới sự tăng trưởng âm của lĩnh vực nông, lâm thủy sản trong 6 tháng đầu năm nay. Bên cạnh đó do sản xuất trồng trọt bị thiệt hại nặng nề vì thiên tai, dẫn đến tăng trưởng giảm, không chỉ 1 hoặc 2 vụ mà 3 năm liên tiếp ở khu vực miền Trung và nhiều vùng không sản xuất được. Cùng với việc xác định không đúng lĩnh vực đầu tư đã khiến nông nghiệp bị sụt giảm về giá trị và sản lượng…

Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phân tích: "Chúng ta vẫn quan tâm quá nhiều đến câu chuyện an ninh lương thực, trong khi gạo đã dư thừa và giá trị cũng thấp nhưng lại tập trung đầu tư lớn vào thủy lợi trong khi thủy lợi lại tập trung phần lớn cho lúa. Trong điều kiện hạn hán không có nước, lúa giá trị thấp sẽ rất khó để duy trì tăng trưởng".

Theo các chuyên gia, để lấy lại đà tăng trưởng trong những tháng cuối năm 2016, ngành nông nghiệp cần lựa chọn ngành hàng có lợi thế xuất khẩu và khai thác thị trường mới. Lĩnh vực được coi là còn dư địa phát triển sản xuất lớn nhất hiện nay của ngành nông nghiệp chính là thủy sản. Hiện nay, vựa tôm 560.000 ha ở Đồng bằng sông Cửu Long đang bước vào sản xuất sẽ bù đắp những sụt giảm trong lĩnh vực trồng trọt vừa qua.

Tuy nhiên, khu vực này hiện đang khan hiếm con giống, nếu không kiểm soát tốt, thủy sản sẽ không những không hỗ trợ được ngành tăng trưởng mà còn làm mất thị trường xuất khẩu.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám, thế mạnh đầu tiên của thủy sản là đối tượng tôm nuôi nước lợ. Có thể không tăng sản lượng nhưng phải tăng chất lượng và giá trị, đồng thời sử dụng mọi biện pháp giảm giá thành góp phần lấy lại đà tăng trưởng của toàn ngành.

"Có lợi thế là tôm sú chúng ta phát triển thì thị trường còn rất rộng, riêng tôm thẻ chân trắng do phải cạnh tranh với nhiều nước vì vậy chúng ta phải nâng cao chất lượng và giảm giá thành. Đặc biệt là không để vướng vào dư lượng kháng sinh cũng như hóa chất cấm liên quan đến các rào cản ở thị trường xuất khẩu. Đồng thời, tăng cường xúc tiến thương mại và mở rộng những thị trường truyền thống cũng như thị trường mới để thúc đẩy xuất khẩu," Thứ trưởng Vũ Văn Tám lưu ý.

Cùng với thủy sản, rau quả là nhóm hàng được nhiều chuyên gia đánh giá đang trên đà mở rộng xuất khẩu và là nhóm sản phẩm luôn có sự tăng trưởng cao nhất trong các mặt hàng nông sản từ đầu năm tới nay, tăng khoảng 37,5%. Đặc biệt, “dư địa” cho tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng này được đánh giá là khá lớn.

Để lấy lại đà tăng trưởng, ngành nông nghiệp cần mở rộng diện tích, thâm canh, rải vụ, tăng năng suất, chất lượng và an toàn thực phẩm đối với các cây ăn quả có thị trường tiêu thụ tốt. Trong đó, tập trung vào các loại cây ăn quả chủ lực như: thanh long, xoài, sầu riêng, nhãn, chôm chôm, vải, chuối. Cùng với đó phải tiếp tục duy trì thị phần ở những thị trường khó tính.

Ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp Việt Nam cho rằng cần phải xem xét lại cơ cấu cây trồng để thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo ông Hùng, lợi thế của nông nghiệp để tăng trưởng hiện nay là lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản, tiếp đến là cây trồng đặc sản: rau và trái cây, bên cạnh đó là tập trung phát triển kinh tế rừng.

Để duy trì tốc độ tăng trưởng, cùng với các giải pháp khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất trong ngắn hạn, từ nay tới cuối năm, ngành nông nghiệp cần có các giải pháp lâu dài, đặc biệt phải thực hiện hiệu quả các cơ chế chính sách có tính chất động lực cho phát triển như: cải cách thủ tục hành chính, thu hút đầu tư của doanh nghiệp, xúc tiến mở rộng thị trường và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.(VOV)

Chốt phương án tăng lương tối thiểu vùng năm 2017 là 7,3%

Chiều 2/8, tại trụ sở Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Hội đồng Tiền lương Quốc gia tổ chức Họp báo công bố đã chốt phương án tăng lương năm 2017 để trình Chính phủ với mức đề xuất tăng bình quân 7,3%, cụ thể từ 180.000 đồng - 250.000 đồng tùy vùng.

Theo ông Phạm Minh Huân - Thứ trưởng Bộ Lao Động, Thương binh và Xã hội Chủ tịch Hội đồng Tiền lương quốc gia, để đi đến phương án 7,3% đã có sự nỗ lực của các bên. Mức tăng lương tối thiểu vừa bảo đảm quyền lợi của người lao động nhưng cũng chú ý chia sẻ những khó khăn của doanh nghiệp.

Với phương án trên, mức lương tối thiểu vùng năm 2017 tăng từ 180.000-250.000 đồng so với năm 2016, bù đủ trượt giá sinh hoạt năm 2016 (dự kiến dưới 5%). Cụ thể, so với lương tối thiểu vùng năm trước, vùng 1 tăng thêm 250.000 đồng, tức tăng 7,1%; vùng 2 tăng 220.000 đồng, tăng 7,1%; vùng 3 tăng 200.000 đồng, tăng 7,4% và vùng 4 tăng 180.000 đồng, tăng 7,9%.

Được biết trước đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề nghị mức tăng là 11%. Tuy nhiên đến phiên họp sáng ngày 2/8, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã hạ đề xuất tăng lương tối thiểu năm 2017 xuống còn 10%.

Trong khi phía Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng đã chấp nhận nâng mức đề xuất tăng lương tối thiểu từ 4-5% như đề xuất ban đầu lên 6,5%.

Theo đánh giá của ông Phạm Minh Huân, mức lương tối thiểu hiện nay mới đáp ứng đủ 90% nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Tuy nhiên, để thực hiện đúng lộ trình tăng lương, đáp ứng đủ nhu cầu của người lao động cũng cần tính đến việc nâng cao năng suất lao động, tạo ra sức cạnh tranh…

Sắp tới, Hội đồng Tiền lương Quốc gia sẽ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt phương án tăng lương tối thiểu vùng năm 2017.(TBNH)

(

Tinkinhte

tổng hợp)
Trở về

Bài cùng chuyên mục