Theo Bloomberg, số vốn ra khỏi Trung Quốc năm 2015 là khoảng 1.000 tỷ USD, lớn gấp 7 lần so với con số 134,3 tỷ USD năm 2014. Tuy nhiên, chưa có dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang thu hút được phần nào trong số vốn ra khỏi Trung Quốc thời gian qua.

Năm 2015 đánh dấu bước phát triển mới của kinh tế Việt Nam. Những kết quả trong cả giai đoạn vừa qua đã tạo nền tảng cho giai đoạn 5 năm tiếp theo, hướng tới tăng trưởng cao hơn, bền vững hơn.
Trước tiên phải nói rằng trong thời kỳ 2011-2015, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển trong một bối cảnh khá đặc biệt. Kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, thăng trầm khó đoán định. WB, IMF hay các tập đoàn kinh tế, tài chính hàng đầu thế giới cứ vài tháng lại phải điều chỉnh dự báo kinh tế toàn cầu theo hướng giảm tốc độ tăng. Nhiều diễn biến tác động trực tiếp tới Việt Nam như giá dầu giảm sâu
Biến nguy cơ thành thời cơ mới
Ở trong nước, mô hình tăng trưởng trước đây bộc lộ nhiều vấn đề cần giải quyết. Cộng thêm với những tác động từ tình hình thế giới, giai đoạn 2011-2015 bắt đầu khi nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô trở thành một thách thức. Đó là chưa kể tác động từ những sự kiện liên quan đến tình hình quốc phòng-an ninh, như vụ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Trong điều kiện đó, thấy rõ các khó khăn, thách thức, cả nước đã đồng sức, đồng lòng, ra sức khắc phục các yếu kém chủ quan, chủ động vươn lên trong khó khăn, thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đạt được chuyển biến tích cực đáng khích lệ.
Kinh tế sau một thời gian giảm tốc độ tăng trưởng đã từng bước khôi phục trong 3 năm qua. Năm 2015 đánh dấu bước phát triển mới: Kinh tế lấy lại đà tăng trưởng, khởi sắc rõ nét với sự phát triển nhanh trở lại của công nghiệp. Mức tăng trưởng bình quân 5 năm cao hơn mức chung của khu vực. Năng lực xuất khẩu mấy năm nay đã tăng mạnh 9-10% và hơn thế trong khi thương mại thế giới chỉ tăng 3-5%.
Trong điều kiện đó, tăng trưởng kinh tế đã gắn kết với giảm nghèo và công bằng xã hội. Theo chuẩn nghèo mới ngang với chuẩn quốc tế, tỉ lệ nghèo nói chung đã giảm từ 20,7% năm 2010 xuống còn 13,5% năm 2014, hay nói cách khác, trong vòng 5 năm đã có trên 6 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh và trẻ em nói chung liên tục giảm. Tỉ lệ trẻ còi xương giảm từ 29,3% xuống còn 24,9%. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế cũng tăng từ 60% năm 2010 lên 71% dân số năm 2015. Tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi đi học mầm non đạt 95,0%...
Trên lĩnh vực thể chế kinh tế, Hiến pháp 2013 và một loạt các luật quan trọng khác đã được thông qua, trong đó có thể kể đến Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Phá sản, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Quản lí và sử dụng vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp…
Những luật này ra đời đã góp phần củng cố bộ khung pháp lý vững chắc giúp nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng vận hành tốt hơn, thích ứng với tiến trình hội nhập quốc tế. Thách thức lúc này là thực hiện các luật đã ban hành một cách nghiêm túc, đưa những quy định tiến bộ trong Hiến pháp 2013 vào cuộc sống.
Việc đàm phán, gia nhập các hiệp định FTA kiểu mới mang lại hứa hẹn mới trong phát triển kinh tế đất nước, góp phần vượt nhanh “bẫy thu nhập trung bình thấp”. Đón bắt thời cơ mới, Việt Nam đã chủ động thương lượng và ký kết các FTA với 55 nước, trong đó có cả 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và 15 nước G20. Các FTA đã hoàn tất ký kết với ASEAN, EU, Liên minh Kinh tế Á-Âu, TPP hay với Hàn Quốc mang lại cơ hội mới cho phát triển.
Đồng thời, những thách thức mới về chất lượng tăng trưởng sẽ là một sức ép tích cực để Việt Nam chuyển đổi mạnh mẽ hơn, biến nguy cơ thành thời cơ mới. Chẳng hạn, tuy chỉ là thành viên có mức thu nhập GDP/đầu người thấp nhất trong 12 nước tham gia TPP, Việt Nam có những lợi thế so sánh đặc biệt mà các thành viên khác không có, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sử dụng nhiều lao động.
Các kết quả mô phỏng cho thấy trong vòng 20 năm tới TPP sẽ đóng góp thêm 8% GDP, 17% giá trị xuất khẩu thực tế và 12% năng lực sản xuất của Việt Nam. Đó là chưa kể tới các tác động lan tỏa và thúc đẩy lẫn nhau. Mặc dù sẽ có nhiều thách thức phải vượt qua, nhưng tác động chung của TPP và các FTA khác đối với Việt Nam là tích cực.
Hướng tới tăng trưởng cao hơn, bền vững hơn
Thời kỳ phát triển mới của đất nước đã mở ra, ở thời điểm các mục tiêu phát triển bền vững bao gồm 17 nhóm chỉ tiêu và 169 tiêu chí cụ thể cho giai đoạn 2016 - 2030 đã được các nước thống nhất tại Hội nghị các nguyên thủ quốc gia tại Liên Hợp Quốc năm 2015. Các mục tiêu này khi vận dụng vào Việt Nam trong 5 năm tới có thể quy về 4 trụ cột:
Thứ nhất là tăng trưởng kinh tế phải cao hơn, bền vững hơn với mục tiêu tăng trưởng trung bình 5 năm tới là từ 6,5% đến 7%/năm trên nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định. Đây là mục tiêu không đơn giản khi kinh tế thế giới còn khó khăn, cơ hội từ các FTA kiểu mới đang mở ra, nhưng năng lực hấp thu cơ hội của nền kinh tế Việt Nam còn có hạn.
Hai là, cùng với tăng trưởng kinh tế, phải phát triển văn hoá, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống người dân. Đó là điều kiện để đạt tới công bằng trong từng bước phát triển kinh tế.
Ba là, bảo vệ và cải thiện môi trường, tăng cường khả năng chống chịu của đất nước trước những tác động mới của biến đổi khí hậu toàn cầu, cũng như các tác động tiêu cực do phát triển công nghiệp, đô thị hóa và các hoạt động thiếu kiểm soát của con người gây ra.
Bốn là phải bảo đảm môi trường hoà bình, ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đây là các điều kiện rất cơ bản để có đời sống an lành cho người dân trong một Nhà nước pháp quyền.
Cũng cần nhắc tới một điểm rất thuận lợi là những kết quả cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo các Nghị quyết 19 của Chính phủ, được cộng đồng doanh nghiệp ghi nhận, từ đó giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và của từng ngành, từng sản phẩm, dịch vụ. Điều này sẽ có tác động lâu dài tới nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu của năm 2016 và 5 năm tới, cần phát huy tối đa nội lực, tranh thủ thời cơ để phát triển bền vững, vượt qua rào cản và các rủi ro không nhỏ. Đó là các thói quen và tư duy cũ không thích hợp với giai đoạn hội nhập sâu; đó là có khoảng cách giữa lời nói và việc làm, giữa các quy định và thực thi; đó là tình trạng tham nhũng, lãng phí; đó cũng có thể là các rủi ro do nền kinh tế chưa thích ứng ngay với các cam kết hội nhập và các biến động khó lường của bối cảnh quốc tế...
Muốn khắc phục, không còn cách nào khác là phải kiên trì thực hiện chính sách đổi mới cơ bản và toàn diện đất nước, cần lấy lợi ích của Tổ quốc và toàn dân tộc đặt lên trên hết để vươn lên.
Theo Bloomberg, số vốn ra khỏi Trung Quốc năm 2015 là khoảng 1.000 tỷ USD, lớn gấp 7 lần so với con số 134,3 tỷ USD năm 2014. Tuy nhiên, chưa có dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang thu hút được phần nào trong số vốn ra khỏi Trung Quốc thời gian qua.
Trong khi nợ công đang tăng nhanh, dự kiến sẽ chạm trần vào năm 2017 thì công tác kiểm soát chi thường xuyên lỏng lẻo luôn khiến số liệu quyết toán ngân sách cao hơn nhiều do với số liệu dự toán. Để giảm áp lực nợ công, bắt buộc chính phủ phải tiết giảm chi tiêu và kiểm soát chi thường xuyên một cách chặt chẽ.
Khởi nghiệp đã được nhen nhóm hàng chục năm qua như dòng chảy tự nhiên của phát triển kinh tế, và dòng chảy đó bắt nguồn từ óc sáng tạo và tinh thần kinh doanh vốn có của người Việt Nam, chỉ còn chờ đợi cú hích về tài chính để có thể cất cánh.
Trước thực trạng nợ công đang tăng nhanh, kéo theo áp lực trả nợ trong bối cảnh bội chi ngân sách nhà nước tăng cao, các chuyên gia tỏ ý lo ngại.
Dù kỳ vọng, nhưng gần 10 năm qua, Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội trên “chuyến tàu” WTO. Đó là tăng trưởng không như kỳ vọng; nền nông nghiệp còn lạc hậu; cơ cấu XK có vấn đề.
Sau 30 năm đổi mới với sự phát triển đáng kinh ngạc, Việt Nam hiện đang đứng trước thời khắc chuyển đổi then chốt khác. Bà Christine Lagarde, Tổng giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) có nhìn nhận như thế nào về vấn đề này?
Theo thống kê, nợ công Việt Nam đã đạt 62,2% GDP, khoảng 126,9 tỷ USD, phần nhiều dùng trong các dự án ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng.
Xuất khẩu gạo phải lập công ty ở Singapore, hai ngày lại phải đi xin giấy phép... là hai trong số nhiều ví dụ cho thấy doanh nghiệp đang thực sự khổ vì đủ các loại "giấy phép con".
Nhiều người lại đặt câu hỏi: Phải chăng Việt Nam đang phải lãnh hậu quả từ việc “trải thảm đỏ” mời gọi đầu tư nước ngoài (FDI), để rồi dễ dàng để “lọt lưới” nhiều doanh nghiệp FDI với công nghệ lạc hậu, ý thức kém, gây ô nhiễm môi trường?
Trong chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2030, EU là một trong những đối tác trọng tâm của Việt Nam để phát triển quan hệ thương mại và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam-EU (EVFTA) sẽ là một biện pháp quan trọng để thực hiện nội dung trên.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự