tin kinh te
 
 
 
rss - tinkinhte.com

Tin kinh tế đọc nhanh sáng 17-08-2016

  • Cập nhật : 17/08/2016

Warren Buffett đặt cược vào Apple

Công ty đầu tư của ông Berkshire Hathway có 15,2 triệu cổ phiếu Apple tính đến hết tháng 6, tương đương 1,5 tỷ USD.

Con số này tăng 55% so với 9,8 triệu cổ phiếu mà Berkshire sở hữu hồi quý I. Berkshire lần đầu công bố mua 1 tỷ USD cổ phiếu Apple hồi tháng 5. Đây là thời điểm không thể tệ hơn, khi cổ phiếu Táo Khuyết lao dốc trong quý II do lo ngại quanh việc doanh số bán iPhone giảm.Tuy nhiên, cổ phiếu này từ đó đã bật tăng, từ dưới 90 USD hồi tháng 5, lên 109 USD hôm qua. Nhà thông thái vùng Omaha cho biết ông không phải người đứng sau quyết định đầu tư vào Apple, mà là các cấp phó của mình.

cong ty berkshire hathaway cua buffett da tang gap ruoi co phan tai apple. anh:the street

Công ty Berkshire Hathaway của Buffett đã tăng gấp rưỡi cổ phần tại Apple. Ảnh:The Street

Buffett và Berkshire nổi tiếng không mấy mặn mà với cổ phiếu ngành công nghệ. Ngoài Apple, họ chỉ mua cổ phần của IBM.

Đầu năm nay, tỷ phú đầu tư Carl Icahn tuyên bố công ty của ông đã bán sạch cổ phần trong Apple, do lo ngại khả năng cạnh tranh tại Trung Quốc. Tuy nhiên, Apple vẫn đang là cái tên dẫn đầu trên thị trường smartphone và thiết bị di động, với doanh số áp đảo các đối thủ. Họ cũng có bảng cân đối kế toán đáng ghen tỵ, với hơn 200 tỷ USD tiền mặt.

Ngoài tăng cổ phần trong Apple, Berkshire cũng giảm 25% tỷ lệ sở hữu trong chuỗi bán lẻ Walmart.


Việt Nam 'bất ngờ' xuất siêu gần 2,3 tỉ USD

Điện thoại, linh kiện là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất. 

Tổng cục Hải Quan vừa công bố, trị giá xuất siêu của Việt Nam tính đến hết tháng 7-2016 đạt gần 2,26 tỉ USD, cao hơn với những số liệu ước tính trước đó gần 500 triệu USD.

Cụ thể, bảy tháng đầu năm, cả nước xuất khẩu lượng hàng hóa trị giá gần 97 tỉ USD, tăng hơn 5% so với cùng kỳ năm 2015, trong khi nhập khẩu đạt gần 95 tỉ USD, giảm 1,2%.

Ở cả chiều xuất khẩu và nhập khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn chiếm ưu thế. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt gần 68 tỉ USD, tăng hơn 8% so với cùng kỳ năm 2015, chiếm gần 70% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước.

 

kim ngach xuat khau cua cac dn fdi chiem toi 70%. anh minh hoa

Kim ngạch xuất khẩu của các DN FDI chiếm tới 70%. Ảnh minh họa

Về nhập khẩu, các DN FDI đạt hơn 55 tỉ USD, giảm 2% so với cùng kỳ, chiếm gần 59% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu cả nước.

 

Mặt hàng dẫn đầu về xuất khẩu vẫn là điện thoại các loại và linh kiện với trị giá kim ngạch đạt 19,6 tỉ USD, tăng 14% so với cùng kỳ.

 

Trong khi đó, máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng dù bị giảm sút 6% về trị giá nhưng vẫn là mặt hàng nước ta nhập khẩu nhiều nhất với kim ngạch trên 15 tỉ USD trong bảy tháng đầu năm 2016. 


Áp lực lớn của ngành da giày Việt Nam

Để tận dụng được các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký, ngành da giày buộc phải tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp trong nước làm được điều này.

Việt Nam đang là nước sản xuất giày dép đứng thứ 3 châu Á sau Trung Quốc, Ấn Độ, và đứng thứ 4 thế giới. Hiện Việt Nam đang sản xuất khoảng 920 triệu đôi giày mỗi năm, xuất khẩu hơn 800 triệu đôi tới hơn 50 thị trường trên thế giới, trong đó Liên minh châu Âu (EU) chiếm tỷ lệ lớn nhất. Sản phẩm túi xách cũng được xuất khẩu sang 40 nước, trong đó thị trường Mỹ chiếm tỷ lệ cao nhất với 41,6%.

Khó khăn trước mắt

Với 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết với các nước và khu vực trên thế giới, xuất khẩu da giày của Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi lớn khi mức thuế xuất giảm mạnh từ 3,5-57,4% xuống 0%, mở ra cơ hội tăng trưởng xuất khẩu lớn cho ngành da giày.

Tuy nhiên, ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hiệp hội Da giày túi xách Việt Nam (Lefaso) cho rằng, khi các hàng rào thuế quan được hạ xuống thì các hàng rào kỹ thuật và phi thuế quan lại được dựng lên. Đây là nguy cơ cho các doanh nghiệp sản xuất da giày vừa và nhỏ trong nước.

Bà Trương Thị Thu Hà, Phó vụ trưởng Vụ Công nghiệp nhẹ (Bộ Công Thương) cũng cho biết, 6 tháng đầu năm nay, tăng trưởng xuất khẩu của ngành da giày chỉ đạt mức hơn 7% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức bình quân 14% của năm 2015.

Trong năm 2016, ngành da giày đặt mục tiêu xuất khẩu là 17,4 tỷ USD và đến năm 2030 sẽ nâng kim ngạch xuất khẩu lên con số 54 tỷ USD. Theo đó, tốc độ tăng trưởng về số lượng là 1,8 lần, nhưng tốc độ tăng trưởng về giá trị lên tới 4 lần. Giải thích về sự chênh lệch này, ông Diệp Thành Kiệt cho rằng, để tận dụng được lợi thế từ các FTA cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp da giày ngoại, các doanh nghiệp trong nước buộc phải tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu và phải tiến dần vào việc sản xuất những dòng sản phẩm có giá trị cao, không thể chỉ tiếp tục sản xuất những dòng sản phẩm cơ bản như hiện tại.

Trước đây dòng sản phẩm có giá trị cao chỉ chiếm khoảng 5%, nhưng hiện nay đã đạt mức trên dưới 10%. “Một số nước như Campuchia, Myanmar, Bangladesh đang sản xuất những dòng giày dép cơ bản và có khả năng được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi từ Liên minh châu Âu, Mỹ và sẽ là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam”, ông Kiệt cảnh báo.

Để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, ngành da giày nước ta đang vấp phải khó khăn lớn là tỷ lệ nguồn cung ứng nguyên, vật liệu nội địa thấp. Theo Lefaso, tỷ lệ nội địa hóa của sản phẩm được sản xuất bởi các doanh nghiệp Việt Nam phải được nâng lên mức 60% để đáp ứng được điều kiện về quy tắc xuất xứ trong các FTA mà Việt Nam đã tham gia, giúp giảm các chi phí về logistics và nâng cao sự chủ động của doanh nghiệp Việt.

Giành thế cân bằng

Một nghịch lý khác, dù da giày là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu cao nhất của Việt Nam, nhưng “phần bánh” xuất khẩu lại hầu hết đang nằm trong tay các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Theo Lefaso, chừng 800 doanh nghiệp doanh nghiệp FDI, mặc dù chiếm chưa đến 25% số lượng doanh nghiệp hoạt động trong ngành, nhưng đang quyết định tới 77% giá trị xuất khẩu, trong đó nhiều doanh nghiệp FDI đang giữ vai trò dẫn dắt thị trường. Chẳng hạn Pouchen với hệ thống dày đặc các công ty con, đã đem về doanh số lên tới trên 30.000 tỷ đồng trong năm 2014 (tương đương 17% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành da giày của Việt Nam).

Các doanh nghiệp FDI đã rất chủ động trong chuỗi cung ứng do hệ thống của họ cung ứng từ nguyên phụ liệu, sản xuất đến phân phối. Trong các chuỗi cung ứng toàn cầu của các thương hiệu sản xuất giày dép lớn trên thế giới như Nike, Adidas… doanh nghiệp Việt ở thế bị động do ở vị thế làm gia công, sản xuất phụ thuộc vào sự chỉ định của nhà nhập khẩu.

Theo Lefaso, hiện nay tỷ lệ nội địa hóa của ngành mới chỉ chiếm 40-45%, trong đó chủ yếu gồm hai mặt hàng thứ yếu là đế giày và chỉ khâu. Nguyên liệu quan trọng nhất để sản xuất giày dép là da thuộc và da nhân tạo vẫn đang phải nhập khẩu. Mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu từ 1,1-1,5 tỷ USD da thuộc cho sản xuất hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp trong nước cũng chỉ cung ứng được vải cho sản xuất loại giày vải cấp thấp, còn các chủng loại vải cao cấp đều phải nhập khẩu. Ngay cả các loại máy móc để phục vụ sản xuất trong ngành hiện nay cũng đều phải nhập. Tất cả những yếu tố này đẩy giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam lên cao và làm giảm tính cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường thế giới.

Một bất lợi khác, do mải mê “mang chuông đi đánh xứ người” nên các doanh nghiệp da giày trong nước bao năm nay gần như lãng quên sân nhà. Tại thị trường nội địa, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm giày dép khoảng 150 triệu đôi/năm, nhưng 60% thị phần do các doanh nghiệp ngoại nắm giữ, trong đó phần lớn là các mặt hàng thuộc phân khúc thấp đến trung cấp là từ Trung Quốc, còn phân khúc cao cấp thì rơi vào tay các thương hiệu nước ngoài. “Khi chúng ta được hưởng thuế suất 0% thì ngược lại chúng ta cũng phải giảm thuế nhập khẩu về 0% và nguy cơ sân nhà bị chiếm lĩnh bởi các doanh nghiệp ngoại là rất lớn”, ông Diệp Thành Kiệt nói.

Theo Lefaso, ngành da giày trong nước vẫn đang có những điểm yếu cơ bản. Thứ nhất là thiếu vốn, do các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ 2 là thiếu công nghệ. Thứ 3 là thiếu đội ngũ nhân sự cao cấp. Thứ 4 là thiếu năng lực quản trị và năng suất lao động thấp. Năng suất bình quân của lao động tại các nhà máy da giày Việt Nam hiện nay chỉ bằng 60-70% năng suất của các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam.

Cũng theo ông Kiệt, khó khăn của doanh nghiệp da giày trong nước sẽ còn tăng lên khi chi phí sản xuất được dự báo sẽ tăng lên trong những năm tới, đặc biệt là do ảnh hưởng của các quy định mới đây của Chính phủ về mức lương tối thiểu.

Để góp phần giảm thiểu những bất lợi hiện nay của ngành da giày trong nước, một trung tâm dịch vụ Lefaso đã ra đời gồm 3 nhóm chức năng chính. Thứ nhất, là nơi liên kết về nguyên phụ liệu, sản phẩm… để từ đó dần hình thành nên chuỗi liên kết nội địa bao gồm các nhãn hàng, các nhà sản xuất, các nhà cung ứng nguyên phụ liệu trong nước, tạo thế cạnh tranh ở ngay thị trường nội địa và xuất khẩu. Thứ hai, là nơi tập trung việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành da giày và túi xách Việt Nam. Thứ ba, đưa vào hoạt động bộ phận nghiên cứu, phân tích về môi trường, tiêu chuẩn hóa chất.

Với cánh cửa rộng mở từ các FTA, cũng như nhu cầu từ thị trường trong nước, hy vọng sẽ tạo nên cuộc cách mạng nhanh chóng, triệt để cho ngành công nghiệp sản xuất da giày nói riêng của Việt Nam.(DDDN)


7 tỉ người trên thế giới ăn tôm Việt

Con tôm có một thị trường rất rộng tới 7 tỷ người trên thế giới. Khác với lợn, bò, hiện có rất ít người kiêng ăn tôm.

Trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay, chúng ta còn có cơ hội biến thách thức thành lợi thế, nhất là đồng bằng sông Cửu Long khi nước biển dâng, khi hạn mặn thì chúng ta sẽ chuyển một bộ phận từ lúa sang thủy sản, trong đó có con 7 tỉ người ăn là con tôm. Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường đã khẳng định như vậy tại hội nghị quản lý tôm giống nước lợ diễn ra ngày 15.8 với sự tham dự của tất cả 28 tỉnh, thành ven biển nước ta.

Nâng chất cho tôm Việt

Với khẩu hiệu “nâng tầm tôm Việt”, những năm qua Tập đoàn sản xuất tôm hàng đầu Việt- Úc đã đầu tư bài bản vào sản xuất giống cũng như tôm thương phẩm theo mô hình thâm canh, năng suất và hiệu quả cao. Đây cũng là mục tiêu chung cho cảngành tôm Việt Nam. Tới thăm trụ sở sản xuất tôm giống của Việt- Úc tại thị trấn Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong (Bình Thuận), ai cũng như bị cuốn hút vào câu chuyện “con tôm Việt” tại đây. Nói về lợi thế ngành tôm, ông Đặng Quốc Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt- Úc cho biết, Việt Nam đã gia nhập Cộng đồng ASEAN với 600 triệu dân, nên giờ làm con tôm không phải cho 90 triệu người trong nươc ăn, mà cho cả 600 triệu người.

Rồi Việt Nam đã tham gia tới 15 hiệp định thương mại tự do. Đặc biệt, nếu tham gia TPP, nghiễm nhiên Việt Nam sẽ “loại” được 2 đối thủ lớn là Ấn Độ và Indonesia do 2 nước này không được tham gia hiệp định. “Tụi em rất mong đợi vào TPP, các quốc gia nhập khẩu tôm hàng đầu của Việt Nam có Mỹ, Nhật, Úc nằm trong khối TPP”- ông Tuấn hào hứng chia sẻ

Ông Tuấn cũng lấy hình ảnh của kình ngư người Singapore Schooling- người trước đó 8 năm mới là một cậu bé 13 tuổi vừa chiến thắng siêu kình ngư M.Phelps của Mỹ để đoạt huy chương vàng môn bơi để nói về khát vọng vươn lên của ngành tôm Việt. “Chúng ta có đủ khát vọng để nâng tầm lên trở thành cường quốc, thành công xưởng sản xuất tôm cho cả thế giới, chứ không mãi cam chịu phận… nhược tiểu mãi được”- ông Tuấn giãi bày.

Tuy nhiên, theo ông Tuấn, để nâng tầm được tôm Việt thì thứ nhất nâng cao giá trị gia tăng, làm sao đảm bảo giá trị tăng liên tục, mà muốn làm như vậy chúng ta phải tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực cho ngành tôm. Một trong những khâu then chốt để tăng chất cho ngành tôm, đó chính là giống.

Ông Nguyễn Hoàng Anh, Chủ tịch Hiệp hội tôm Bình Thuận, thực tế cho thấy chất lượng con giống quyết định 70% sự thành công của người nuôi tôm thịt nên chất lượng con giống rất quan trọng đối với nghề nuôi tôm ở Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn giống tôm bố mẹ ở Việt Nam đều được nhập khẩu từ Mỹ, Singapore, Thái Lan và Mexico trong khi giống tôm sú thì khai thác ngoài tự nhiên. Trong những năm qua, việc nghiên cứu tôm thẻ chân trắng trong nước đang có nhiều triển vọng khi cuối năm 2015, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản đã nghiên cứu được 4 đàn tôm có chất lượng tốt làm vật liệu cho việc phát triển tôm thẻ chân trắng bố mẹ trong nước. Tập đoàn Việt Úc đã sản xuất được 5.000-10.000 tôm bố mẹ thẻ chân trắng, có thể đáp ứng được 50-55% nhu cầu giống của Tập đoàn.

Tính đến thời điểm hiện tại, cả nước đã sản xuất được hơn 57 tỉ con giống, trong đó tôm thẻ chân trắng đạt gần 40 tỷ và tôm sú đạt hơn 15 tỷ con trong khi nhu cầu tôm giống khoảng 130 tỷ con, mỗi năm cả nước cần khoảng 230 nghìn con tôm bố mẹ sản giống. Các tỉnh Nam Trung bộ là Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận là khu vực sản xuất tôm giống trọng điểm của cả nước.

Mỗi năm khu vực này đáp ứng khoảng 50% số lượng giống tôm nước lợ cho nhu cầu thả nuôi của cả nước. Bất cập nhất trong khâu giống, theo ông Nguyễn Hoàng Anh là vẫn còn hiện tượng cơ sở nuôi tôm giống bắt tôm thịt về làm tôm bố mẹ, thậm chí lấy nguồn tôm trôi nổi, không rõ nguồn gốc để sản xuất thậm hay nhập giống không đảm bảo chất lượng từ Trung Quốc. Điều này sẽ gây rủi ro rất lớn cho người nuôi.

Ông Nguyễn Hữu Ninh - Viện trưởng Viện nghiên cứu nuôi trồn thủy sản III cho biết, tôm bố mẹ thẻ chân trắng nhập khẩu từ nước ngoài về được nuôi trong điều kiện tối ưu về nhiệt độ, độ mặn nên khi về Việt Nam nuôi với điều kiện dao động nhiệt độ, độ mặn cao, môi trường thay đổi nên khả năng sống sót thấp, khoảng 30-75%. Đây là một rủi ro lớn đối với người nuôi trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang diễn biến ngày càng phức tạp. Để khắc phục điều này, trong những năm qua Viện đã nhập khẩu đàn giống bố mẹ ở các nước về và tiến hành lai tạo, chọn lựa ra đàn tôm bố mẹ thích ứng với điều kiện của vùng nuôi. Kết quả đối chứng với giống tôm nhập khẩu về cho thấy, đàn tôm thẻ chân trắng bố mẹ chọn tạo trong nước tốt hơn khi tỷ lệ sống sót cao hơn và năng suất tăng khoảng 5-7%.

Trong khi đó, ông Trần Công Bình - Giám đốc Công ty Giống Châu Phi thì cho rằng, hiện nay chúng ta mới tập trung nghiên cứu tôm bố mẹ thẻ chân trắng sạch bệnh, tăng trưởng cao để nuôi thâm canh trong khi tôm kháng bệnh, tăng trưởng nhanh để nuôi quảng canh chưa được chú ý nhiều. Trong khi diện tích nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến đang chiếm phần lớn diện tích nuôi tôm sú ở Việt Nam, vào khoảng gần 600.000 ha hiện năng suất mới chỉ đạt 150-300kg/ha/năm. Trong khi đó, tại Ecuado, với chương trình chọn tạo giống kháng bệnh của họ ở quy mô không lớn lắm nhưng họ đã đạt năng suất nuôi khoảng 2.300 tấn/ha/năm.

Tôm - thị trường cho 7 tỉ người ăn

Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết: Nông nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với 3 thách thức cực lớn, mà không giải được, thì sẽ thụt bị lùi. Ba thách thức đó là: Thứ nhất, nông nghiệp nước ta là một nền sản xuất nhỏ dựa trên 12 triệu hộ nông dân, mỗi hộ chỉ canh tác 0,3ha, các ngành truyền thống khác cũng vậy với bình quân của các đơn vị sản xuất rất thấp. Đó là một thách thức rất lớn mà thách thức này khi chúng ta hội nhập toàn cầu không thể chiến thắng, thậm chí ngay trên sân nhà chúng ta sẽ bị thua, đó là cái chắc chắn.

Một thách thức thứ hai biến đổi khí hậu toàn cầu, Việt Nam chúng ta nằm ở vị trí Châu Á – Thái Bình Dương với bờ biển dài 3.260km với địa hình ¾ là núi và cao nguyên do đó mức độ tổn thương là 1 trong 3 quốc gia sẽ bị tổn thương lớn nhất và diễn biến trong những tháng đầu năm đã cho thấy rõ điều đó, rồi đây sẽ cực đoan hơn nhiều. Do vậy, nó sẽ làm đảo lộn toàn bộ cấu trúc của sản xuất truyền thống, nếu chúng ta cứ đi theo hướng đồng bằng sông cửu long là lúa, cây ăn trái, là thủy sản; miền Bắc là lúa, miền Trung cũng lúa, chỗ nào cũng lúa, thì sẽ không hiệu quả, mà cần phải chuyển dịch dần sang nuôi tôm.

Thách thức thứ ba, hội nhập sâu rộng, đến giờ này chúng ta đã hội nhập 7 AFTA (hiệp định thương mại tự do) đang tiến hành thực thi và rồi đây ký kết tiếp tục 6 AFTA nữa, có nghĩa Việt Nam là thị trường mở của thế giới và mở ở đây là mở 2 chiều, một mặt chúng ta mở cơ hội hàng hóa đi, nhưng cơ hội đi của chúng ta đang bị thách thức do sản xuất còn manh mún, làm giảm sức canh tranh của các sản phẩm nông nghiệp. Do đó, phải cấu trúc lại nền sản xuất.

Từ những thách thức này, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nêu vấn đề: “Chúng ta cần cấu trúc lại nền sản xuất theo hướng gì? Về nguyên tắc, có 2 nguyên lý: cái gì mạnh thì ta làm hay nói đúng hơn là lợi thế; thứ hai làm là phải khoa học công nghệ, một chuỗi giá trị sâu nhất, ở đó chúng ta chiếm thị phần lớn nhất về chuỗi giá trị. Khi chúng tôi tiếp cận công việc, chúng tôi xác định rõ, Việt Nam trong tái cơ cấu thủy sản có một dư địa lớn, đó là con tôm. Chúng tôi khẳng định, con tôm sẽ là một dư địa trước mắt cho phục hồi bù đắp một phần tăng trưởng của ngành nông nghiệp 6 tháng cuối năm. Đó là trước mắt, còn chiến lược con tôm hiện nay được coi là một mặt hàng chiến lược hàng hóa của chúng ta”.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, con tôm có thị trường rất rộng tới cả 7 tỷ người trên thế giới. Khác với lợn, bò, hiện có rất ít người kiêng ăn tôm. Trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay, chúng ta còn có cơ hội biến thách thức thành lợi thế, nhất là đồng bằng sông Cửu Long khi nước biển dâng, khi hạn mặn thì chúng ta sẽ chuyển một bộ phận từ lúa sang thủy sản, trong đó có con 7 tỉ người ăn là con tôm. Theo ông Cường, chúng ta phải có bước đi táo bạo hơn kể cả sản phẩm giống, thức ăn, công nghệ, phải đi có những quyết sách đi nhanh hơn, không cần tuần tự. “Câu chuyện facebook trả lời ta việc đó, những tập đoàn trước kia đi hàng trăm năm, thì bằng khoa học công nghệ, bằng khát vọng con người chỉ đi từ 2-3 năm vẫn đến đích và câu chuyện với con tôm cũng vậy” - ông Cường nói.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đề nghị các địa phương, doanh nghiệp sản xuất tôm cần “sốc lại đội hình”, một mặt duy trì chiến lược, một mặt duy trì con thương mại tốt như hiện nay để ổn định cơ cấu thị phần, nhưng vẫn phải chuẩn bị cho một chiến lược cạnh tranh quyết liệt nay mai đang đặt ra mà mình đã có sẵn nền tảng. Bên cạnh đó, cần đưa tôm thành mặt hàng chiến lược quốc gia để có chính sách tạo động lực để phát triển thương hiệu tôm Việt Nam lớn mạnh trên thị trường thế giới.(Laodong)


(

Tinkinhte

tổng hợp)
Trở về

Bài cùng chuyên mục