Tuy không phải là mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường Pakistan trong 10 tháng đầu năm nay nhưng thủy sản lại có tốc độ tăng mạnh vươn lên dẫn đầu về mức độ tăng trưởng.

Trung Quốc luôn dẫn đầu kim ngạch và tốc độ tăng trưởng về xuất khẩu giấy và sản phẩm từ giấy của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2018.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, kim ngạch xuất khẩu giấy của Việt Nam trong tháng 9/2018 đạt 70,4 triệu USD giảm 18,7% so với tháng 8/2018, tính chung từ đầu năm đến hết tháng 9/2018 đã xuất khẩu 750 triệu USD giấy và các sản phẩm từ giấy, tăng 48,4% so với cùng kỳ năm 2017.
Với khoảng cách vị trí địa lý không xa với Việt Nam Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chủ lực giấy và sản phẩm của Việt Nam, chiếm 26,3% tỷ trọng đạt 197,4 triệu USD tăng gấp 4,9 lần (tức tăng 391,43%) – đây cũng là thị trường có tốc độ tăng vượt trội. Riêng tháng 9/2018 đạt 13,5 triệu USD giảm 40,78% so với tháng 8/2018 và giảm 24,3% so với tháng 9/2017.
Đứng thứ hai là thị trường đạt 84,7 triệu USD, tăng 19,14% so với cùng kỳ, riêng tháng 9/2018 đạt 7,5 triệu USD, tăng 17,89% so với tháng 8 và tăng 37,2% so với tháng 9/2017.
Kế đến là các thị trường Nhật Bản, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Singapore…
Nhìn chung, 9 tháng đầu năm nay kim ngạch xuất khẩu giấy và sản phẩm từ giấy sang các thị trường đều có tốc độ tăng trưởng chiếm 82,3%, ngoài thị trường Trung Quốc có mức tăng đột biến, thì xuất sang thị trường Philippines cũng có tốc độ tăng mạnh, tuy chỉ đạt 20,2 triệu USD, nhưng tăng gấp 2,3 lần (tức tăng 134,76%) so với cùng kỳ 2017; tính riêng tháng 9/2018 thì xuất sang thị trường này lại giảm so với tháng trước đó, giảm 31,93% nhưng so với tháng 9/2017 lại tăng tới 71% đạt 1,3 triệu USD. Ngoài ra, xuất sang Hàn Quốc cũng tăng trưởng khá trên 83% đạt 17,2 triệu USD, riêng tháng 9/2018 chỉ đạt 2,1 triệu USD giảm 7,02% so với tháng 8/2018 và tăng 8,83% so với tháng 9/2017.
Thị trường xuất khẩu giấy và sản phẩm 9 tháng năm 2018
Thị trường | T9/2018 (USD) | +/- so với T8/2018 (%)* | 9T/2018 (USD) | +/- so với cùng kỳ 2018 (%)* |
Trung Quốc | 13.577.173 | -40,78 | 197.481.628 | 391,43 |
Mỹ | 7.558.870 | 17,89 | 84.726.766 | 19,14 |
Đài Loan | 6.993.775 | -18,85 | 68.424.726 | 6,51 |
Nhật Bản | 5.511.655 | -31,42 | 63.746.864 | 1,42 |
Campuchia | 5.919.213 | -4,63 | 48.842.274 | 27,72 |
Malaysia | 4.027.606 | -15,3 | 37.992.358 | 57,88 |
Indonesia | 3.482.608 | -16,36 | 32.280.741 | 47,1 |
Singapore | 3.063.667 | -20,21 | 29.163.630 | 4,53 |
Australia | 3.236.465 | -6,02 | 23.826.965 | -1,11 |
Thái Lan | 2.460.454 | -10,76 | 23.528.887 | 43,04 |
Philippines | 1.301.671 | -31,93 | 20.280.242 | 134,67 |
Hàn Quốc | 2.101.112 | -7,02 | 17.270.100 | 83,73 |
Hồng Kông (TQ) | 573.308 | -28,26 | 5.762.968 | 11,68 |
Lào | 738.706 | 24,57 | 3.870.349 | 11,85 |
UAE | 439.682 | 68,38 | 3.039.013 | -0,71 |
Đức | 505.386 | 232,82 | 1.711.698 | -25,59 |
Anh | 269.371 | 11,1 | 1.528.904 | 12,01 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Tuy không phải là mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường Pakistan trong 10 tháng đầu năm nay nhưng thủy sản lại có tốc độ tăng mạnh vươn lên dẫn đầu về mức độ tăng trưởng.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 3,27 triệu tấn dầu thô, thu về 1,87 tỷ USD, giảm mạnh 44,6% về lượng và giảm 22,6% về kim ngạch so với 10 tháng đầu năm ngoái.
9 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Pháp đạt gần 2,8 tỷ USD, tăng 10,69% trong đó mặt hàng gạo có tốc độ tăng đột biến gấp gần 3 lần so với cùng kỳ 2017.
Mặc dù tháng 9/2018 xuất khẩu chất dẻo nguyên liệu suy giảm, nhưng nếu tính chung 9 tháng đầu năm 2018 thì kim ngạch nhóm hàng này đều tăng cả lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Sau khi xuất khẩu tăng ở tháng 8/2018 thì nay sang tháng 9/2018 xơ sợi xuất khẩu giảm cả lượng và trị giá, giảm lần lượt 8,7% và 10,4% chỉ đạt 114,9 nghìn tấn, trị giá 311 triệu USD.
Số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ cho thấy, xuất khẩu sản phẩm từ cao su của Việt Nam trong tháng 9/2018 giảm 15,6% so với tháng 8/2018 chỉ đạt 56,4 triệu USD – đây là tháng giảm đầu tiên sau 3 tháng tăng liên tiếp.
Xuất khẩu nhóm hàng phương tiện vận tải 9 tháng đầu năm 2018 đạt 5,89 tỷ USD, chiếm 3,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại của cả nước.
Nếu như năm 2016 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và sản phẩm gốm sứ nói riêng giảm 7,5% năm 2015 và 2016 giảm 9,8%, nhưng sang đến năm 2017 đã lấy lại đà tăng trưởng 8,2% đạt 465,8 triệu USD và 9 tháng đầu năm 2018 vẫn giữ được mức tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước, đạt 366 triệu USD.
Số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam cho thấy, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhựa liên tục tăng mạnh những năm gần đây từ 1,5% năm 2015 lên 14% năm 2017, đạt 2,5 tỷ USD và 9 tháng đầu năm 2018 đạt 2,2 tỷ USD, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước.
9 tháng đầu năm 2018, lượng hạt tiêu xuất khẩu của cả nước đạt 192.902 tấn, tương đương 634,68 triệu USD.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự