Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng, trong 10 tháng đầu năm 2018 kim ngạch nhập khẩu thủy sản đã tăng 22,4% so với 10 tháng đầu năm 2017, đạt 1,41 tỷ USD.

Mặc dù tháng 9/2018 xuất khẩu chất dẻo nguyên liệu suy giảm, nhưng nếu tính chung 9 tháng đầu năm 2018 thì kim ngạch nhóm hàng này đều tăng cả lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Số liệu từ TCHQ cho thấy, tháng 9/2018 Việt Nam chỉ xuất 59 nghìn tấn chất dẻo nguyên liệu, thu về 70,9 triệu USD, giảm 1,9% về lượng và 0,4% trị giá so với tháng 8.2018 – đây là tháng suy giảm thứ ba liên tiếp.
Tính chung từ đầu năm đến hết tháng 9/2018 đã xuất được 637,6 nghìn tấn, trị giá 654,4 triệu USD tăng gấp 2,1 lần về lượng (tức tăng 109%) và 87,3% trị giá so với cùng kỳ năm trước. Giá xuất bình quân 1.026,34 USD/tấn, giảm 10,38%.
Trung Quốc tiếp tục dẫn đầu kim ngạch, thị trường chủ lực nhập khẩu mặt hàng này của Việt Nam, chiếm 68% tổng lượng nhóm hàng xuất khẩu, trong 9 tháng đầu năm 2018 xuất sang Trung Quốc tăng mạnh cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt gấp 3,5 lần (tức tăng 246,05%) và gấp 3,4 lần (tức tăng 243,78%), đạt 433,7 nghìn tấn, trị giá 350 triệu USD. Tính riêng tháng 9/2018 đã xuất 32,3 nghìn tấn sang Trung Quốc, đạt 31,3 triệu USD, giảm 11,86% về lượng và 8,52% trị giá so với tháng 8/2018; nhưng nếu so với tháng 9/2017 thì tăng 29,3% về lượng và 25,67% trị giá.
Thị trường đứng thứ hai sau Trung Quốc là Indonesia đạt 41,7 nghìn tấn, trị giá 61,9 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ giảm 33,02% về lượng và 24,56% trị giá. Tuy nhiên, tháng 9/2018 xuất khẩu sang Indonesia lại tăng mạnh so với tháng 8/2018, tăng 70,21% về lượng và 45,3% trị giá, đạt 7,6 nghìn tấn; 10 triệu USD.
Kế đến là thị trường Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan…. Nhìn chung, 9 tháng đầu năm lượng chất dẻo nguyên liệu xuất sang các thị trường đều có tốc độ tăng trưởng, chiếm 60%. Đặc biệt, thời gian này ngoài những thị trường truyền thống với tốc độ tăng mạnh, thì xuất khẩu chất dẻo nguyên liệu sang thị trường Bờ Biển Ngà tăng đột biến, tuy chỉ đạt 141 tấn, trị giá 123,3 nghìn USD, nhưng tăng gấp 11,75 lần về lượng (tức tăng 1075%) và gấp 6,1 lần về trị giá (tức tăng 511,61%).
Ngoài thị trường Trung Quốc, Bờ Biển Ngà tăng mạnh, thì xuất sang thị trường Nhật Bản cũng tăng khá mạnh, gấp 3,2 lần về lượng (tức tăng 218,41%) và gấp 2,7 lần trị giá (tức tăng 165,48%) tuy chỉ đạt 18,1 nghìn tấn, trị giá 24,2 triệu USD.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam giảm mạnh xuất sang thị trường Italy và Thổ Nhĩ Kỳ giảm lần lượt 81,15% và 76,48% về lượng; giảm 61,34% và 68,57% về trị giá tương ứng với 131 tấn, 1,9 triệu USD; 400 tấn, 690 nghìn USD.
Thị trường xuất khẩu chất dẻo nguyên liệu 9 tháng năm 2018
Thị trường | 9T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%)* | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Trung Quốc | 433.771 | 350.028.654 | 246,05 | 243,78 |
Indonesia | 41.790 | 61.943.952 | -33,02 | -24,56 |
Thái Lan | 16.293 | 29.535.272 | -8,03 | 4,18 |
Ấn Độ | 23.039 | 28.078.128 | 7,24 | 23,06 |
Nhật Bản | 18.140 | 24.282.768 | 218,41 | 165,48 |
Hàn Quốc | 7.950 | 16.457.108 | 32,7 | 75,48 |
Philippines | 8.329 | 11.912.664 | 21,97 | 26,37 |
Campuchia | 7.354 | 11.248.431 | 74,8 | 96,4 |
Malaysia | 6.455 | 10.997.278 | -4,29 | 10,41 |
Bangladesh | 7.544 | 10.342.287 | 46,83 | 30,36 |
Đài Loan | 4.932 | 10.229.863 | -21,84 | -4,87 |
Myanmar | 3.652 | 4.609.513 | 51,03 | 39,66 |
Australia | 2.817 | 3.984.717 | 7,15 | 5,92 |
Canada | 1.954 | 3.779.583 | -4,31 | -0,9 |
Singapore | 1.379 | 2.360.096 | 23,79 | 12,4 |
Hồng Kông (TQ) | 1.138 | 2.124.793 | -3,72 | 1,72 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 400 | 690.010 | -76,48 | -68,57 |
Nam Phi | 456 | 572.363 | -32,64 | -23,69 |
Italy | 131 | 254.986 | -81,15 | -61,34 |
Bờ Biển Ngà | 141 | 123.301 | 1.075,00 | 511,61 |
Theo Vinanet.vn
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng, trong 10 tháng đầu năm 2018 kim ngạch nhập khẩu thủy sản đã tăng 22,4% so với 10 tháng đầu năm 2017, đạt 1,41 tỷ USD.
Tuy không phải là thị trường xuất khẩu chè chủ lực của Việt Nam, nhưng 10 tháng năm 2018 tốc độ xuất khẩu chè sang thị trường Philippines tăng mạnh vượt trội về lượng.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, hàng hóa từ Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam trong tháng 10/2018 tăng 8,8% kim ngạch so với tháng 9/2018, đạt 6,15 tỷ USD và cũng tăng 18,8% so với cùng tháng năm ngoái. Tính chung kim ngạch nhập khẩu trong 10 tháng đầu năm nay đạt 53,39 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy không phải là mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường Pakistan trong 10 tháng đầu năm nay nhưng thủy sản lại có tốc độ tăng mạnh vươn lên dẫn đầu về mức độ tăng trưởng.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 3,27 triệu tấn dầu thô, thu về 1,87 tỷ USD, giảm mạnh 44,6% về lượng và giảm 22,6% về kim ngạch so với 10 tháng đầu năm ngoái.
9 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Pháp đạt gần 2,8 tỷ USD, tăng 10,69% trong đó mặt hàng gạo có tốc độ tăng đột biến gấp gần 3 lần so với cùng kỳ 2017.
Sau khi xuất khẩu tăng ở tháng 8/2018 thì nay sang tháng 9/2018 xơ sợi xuất khẩu giảm cả lượng và trị giá, giảm lần lượt 8,7% và 10,4% chỉ đạt 114,9 nghìn tấn, trị giá 311 triệu USD.
Số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ cho thấy, xuất khẩu sản phẩm từ cao su của Việt Nam trong tháng 9/2018 giảm 15,6% so với tháng 8/2018 chỉ đạt 56,4 triệu USD – đây là tháng giảm đầu tiên sau 3 tháng tăng liên tiếp.
Trung Quốc luôn dẫn đầu kim ngạch và tốc độ tăng trưởng về xuất khẩu giấy và sản phẩm từ giấy của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2018.
Xuất khẩu nhóm hàng phương tiện vận tải 9 tháng đầu năm 2018 đạt 5,89 tỷ USD, chiếm 3,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại của cả nước.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự