Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng giày dép của Việt Nam trong tháng 7/2018 đạt 1,44 tỷ USD, giảm 1,4% so với tháng liền kề trước đó nhưng tăng 10% so với cùng tháng năm ngoái.

Tháng 7/2018 kim ngạch xuất khẩu giấy và vản phẩm giảm 14,8% so với tháng 6/2018 xuống còn 85,4 triệu USD, nhưng nếu tính chung từ đầu năm đến hết tháng 7/2018 đạt 591,5 triệu USD, tăng 59,1% so với cùng kỳ 2017.
Trung Quốc lục địa là thị trường chủ lực nhập khẩu giấy của Việt Nam kể từ đầu năm đến nay, chiếm 27,2% tỷ trọng, đạt 160,9 triệu USD, tăng gấp hơn 11 lần (tức tăng 1028,97%) so với cùng kỳ 2017.
Nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á chiếm 25,4% tỷ trọng chỉ đứng thứ hai sau thị trường Trung Quốc, đạt 150,2 triệu USD, tăng 41,19%.
Mỹ là thị trường đạt kim ngạch đứng thứ ba 70,6 triệu USD, tăng 15,92%, kế đến là Đài Loan (TQ), tăng 9% so với cùng kỳ 2017 đạt 52,6 triệu USD.
Nếu so sánh với cùng kỳ năm 2017, ngoài thị trường Trung Quốc lục địa có tốc độ tăng đột biến thì xuất sang Philippine và Hàn Quốc cũng tăng mạnh. Cụ thể, xuất sang Philippien tăng gấp 2,47 lần (tức tăng 147,65%) tuy chỉ đạt 17 triệu USD; sang Hàn Quốc tăng gấp 2,25 lần (tức tăng 125,67%) đạt 12,8 triệu USD.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu sang các nước EU lại sụt giảm mạnh 24% xuống còn 2,1 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu giấy và sản phẩm từ giấy 7 tháng năm 2018
Thị trường | T7/2018 (USD) | +/- so với tháng 6/2018 (%)* | 7T/2018 (USD) | +/- so với cùng kỳ năm 2017 (%)* |
Trung Quốc | 28.787.036 | -30,76 | 160.929.485 | 1,028,97 |
Hoa Kỳ | 6.228.739 | -26,53 | 70.634.235 | 15,92 |
Đài Loan | 7.446.656 | -0,11 | 52.602.285 | 9 |
Nhật Bản | 8.004.203 | 10,44 | 49.938.443 | 6,6 |
Campuchia | 5.825.075 | 4,45 | 36.674.482 | 27,95 |
Malaysia | 4.806.215 | 4,3 | 29.121.573 | 55 |
Indonesia | 3.890.486 | 32,19 | 24.446.040 | 53,46 |
Singapore | 2.953.929 | 7,57 | 22.219.320 | 3,95 |
Thái Lan | 2.631.616 | 16,79 | 18.210.202 | 51,02 |
Philippines | 1.902.279 | 17,45 | 17.065.991 | 147,65 |
Australia | 3.008.926 | 33,04 | 17.048.352 | -10,39 |
Hàn Quốc | 2.256.738 | -4,95 | 12.833.474 | 125,67 |
Hồng Kông (TQ) | 613.024 | -6,32 | 4.390.286 | 10,48 |
Lào | 435.141 | 10,72 | 2.538.702 | -7,02 |
UAE | 256.825 | -33,38 | 2.338.187 | -0,34 |
Đức | 245.167 | 58,54 | 1.054.883 | -40 |
Anh | 156.507 | -23,26 | 1.048.118 | 2,94 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Dẫn nguồn tin từ Cafef, Tri thức trẻ, thời gian qua Trung Quốc tăng nhập khẩu giấy và sản phẩm từ thị trường Việt Nam do nguồn cung trong nước thiếu hụt và Chính phủ Trung Quốc siết chặt chính sách môi trường đối với các doanh nghiệp bản địa và nhập khẩu nguyên liệu tái chế, khiến hàng loạt nhà máy giấy và bột ô nhiễm tại đây đóng cửa. Bên cạnh đó, từ giữa tháng 7/2018 do thiếu hụt nguồn cung giấy thu hồi (RCP), các nhà sản xuất hàng đầu đã công bố kế hoạch ngừng hoạt động trong thời gian còn lại của tháng 7 và tháng 8. Một lượng lớn RCP giá rẻ đã được chuyển hướng sang các nước Châu Á khác như Việt Nam và Đài Loan (TQ).
Dự báo, những tháng còn lại của năm 2018, kim ngạch xuất khẩu giấy và sản phẩm vẫn giữ được đà tăng trưởng, trong đó đặc biệt là thị trường Trung Quốc, khi mà Chính phủ nước này tiếp tục cấp giấy phép nhập khẩu RCP, mặc dù trên thực tế số lượng nhập khẩu đã bị suy giảm xuống mức rất thấp do bị kiểm tra nghiêm ngặt.
Ngoài thị trường Trung Quốc, thị trường xuất khẩu giấy của Việt Nam thời gian tới được mở rộng hơn nữa, bởi hiện nay làn sóng tẩy chay đồ nhựa dùng một lần, đặc biệt là ống hút nhựa đang lan tỏa khắp toàn cầu, mở ra cơ hội và triển vọng cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thay thế bao gồm ống hút thủy tinh và ống giấy hút.
Theo Vinanet.vn
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng giày dép của Việt Nam trong tháng 7/2018 đạt 1,44 tỷ USD, giảm 1,4% so với tháng liền kề trước đó nhưng tăng 10% so với cùng tháng năm ngoái.
Nhật Bản là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại than xuất khẩu của nước ta. Trong 7 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu sang Nhật 538.465 tấn than đá, thu về 70,3 triệu USD.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 7/2018, xuất khẩu rau quả của cả nước ước đạt 345,31 triệu USD, tăng 5,9% so với tháng 6/2018 nhưng giảm 3,9% so với tháng 7/2017. Tính chung cả 7 tháng đầu năm, kim ngạch ước đạt 2,33 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm 2017.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng 7/2018 đạt 11.671 tấn, thu về 20,03 triệu USD, giảm 0,06% về lượng và giảm 1,9% về kim ngạch so với tháng 6/2018. So với tháng 7/2017 cũng giảm 13,6% về lượng và giảm 12,8% về kim ngạch.
Theo số liệu từ TCHQ, 7 tháng đầu năm 2018 nhóm hàng thủ công mỹ nghệ đã góp vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước 5,67 tỷ USD, chiếm 4,22% tỷ trọng.
Tính đến hết tháng 7/2018, lượng tiêu xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 21,3 nghìn tấn, trị giá 66,2 triệu USD, giảm 3,2% về lượng và giảm 6% trị giá so với tháng 6/2018 – đây là tháng giảm thứ tư liên tiếp.
Cà phê của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường các nước EU, đạt 453.988 tấn, tương đương 838,31 triệu USD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ Trung Quốc trong 7 tháng đầu năm nay tăng khá mạnh trên 13% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 35,73 tỷ USD, trong đó có nhiều mặt hàng là nguyên liệu sản xuất và hàng thương mại, tiêu dùng.
Trong nhóm hàng nhiên liệu nhập khẩu, thì khí đốt hóa lỏng nhập khẩu chiếm thị phần thấp nhất 0,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, so với cùng kỳ tăng cả lượng và trị giá. Trong đó, Trung Quốc là thị trường chủ lực chiếm 36,1% tổng lượng nhóm hàng.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu nhóm hàng xơ sợi dệt trong 7 tháng đầu năm 2018 tăng mạnh 17% về lượng và tăng 33,3% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 580.831 tấn, tương đương gần 1,36 tỷ USD.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự