Dù lập nhiều kỳ tích nhưng trái cây Việt Nam xuất khẩu vẫn còn cảnh “sáng rau, chiều rác” vì nhanh héo. Ngày đầu giá bán có thể 10 USD/kg nhưng sang ngày thứ ba chỉ giá chỉ còn 1/3...

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Australia tăng, tuy nhiên để tận dụng tốt nhất Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA) hiệu lực từ năm 2010, thì các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý chủ động nguồn nguyên vật liệu, đa dạng, nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa, theo Thương vụ Việt Nam tại Australia.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Australia trong tháng 4/2018 giảm 14,1% so với tháng 3 và giảm 11,58% s với tháng 4/2017 tương đương 318,8 triệu USD. Tính chung 4 tháng đầu năm 2018 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này chỉ đạt 1,2 tỷ USD, tăng 23,29% so với cùng kỳ năm trước.
Trong rổ hàng hóa xuất khẩu sang Australia thời gian này thì nhóm hàng công nghiệp chiếm thị phần lớn và đều có tốc độ tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2017. Cụ thể, điện thoại các loại và linh kiện đạt kim ngạch cao nhất 353,8 triệu USD, chiếm 27,4% tổng kim ngạch tăng 40,4% so với cùng kỳ. Đứng thứ hai là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, đạt 117,3 triệu USD, tăng 0,04%, kế đến là máy móc thiết bị phụ tùng và dầu thô, đạt lần lượt 99,7 triệu USD và 96,4 triệu USD, tăng tương ứng 73,06% và 53,22%.
Nhìn chung, kim ngạch hàng hóa xuất sang Austrlia trong 4 tháng đầu năm nay đều tăng trưởng, số nhóm hàng này chiếm 69,6%, trong đó phải kể đến máy ảnh máy quay phim và linh kiện, dây điện và dây cấp điện tăng mạnh vượt trội gấp hơn 3 lần mỗi nhóm hàng, trong đó máy ảnh máy quay phim và linh kiện tăng mạnh nhất. Ngoài ra, sản phẩm từ sắt thép cũng có tốc độ tăng khá 116,52% đạt 38,8 triệu USD.
Ngược lại, nhóm hàng với kim ngạch suy giảm chỉ chiếm 30,3%, trong đó clanke và xi măng giảm mạnh nhất 83,5% về trị giá và 94,56% về lượng, tương ứng với 4,6 nghìn tấn, 493,5 nghìn USD, giá xuất bình quân đạt 105,07 USD/tấn, tăng 203,5% so với cùng kỳ 2017.
Đáng chú ý, trong rổ hàng hóa xuất khẩu sang Australia thì nhóm hàng hạt tiêu có giá xuất bình quân đạt cao nhất 4.933,48 USD/tấn, tuy nhiên so với cùng kỳ giảm 36,85%.
Xuất khẩu sang thị trường Australia 4 tháng năm 2018
Mặt hàng | 4 tháng năm 2018 | +/- so sánh với cùng kỳ năm 2017 | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng |
| 1.288.845.351 |
| 23,29 |
Điện thoại các loại và linh kiện |
| 353.864.962 |
| 40,4 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
| 117.373.793 |
| 0,04 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
| 99.775.072 |
| 73,06 |
Dầu thô | 181.242 | 96.494.340 | 25,81 | 53,22 |
Giày dép các loại |
| 64.147.110 |
| -6,15 |
Hàng dệt, may |
| 63.179.447 |
| 14,96 |
Hàng thủy sản |
| 56.801.755 |
| 14,12 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
| 51.133.090 |
| 6,63 |
Sản phẩm từ sắt thép |
| 38.843.182 |
| 116,52 |
Hạt điều | 2.838 | 27.285.309 | -23,17 | -21,38 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
| 17.149.907 |
| 28,75 |
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù |
| 15.009.332 |
| 27,05 |
Cà phê | 7.074 | 13.546.550 | 29,13 | 6,59 |
Sắt thép các loại | 16.479 | 13.055.803 | -47,74 | -30,97 |
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ |
| 12.704.523 |
| 27,95 |
Kim loại thường khác và sản phẩm |
| 11.963.968 |
| -18,99 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng |
| 11.647.101 |
| -53,27 |
Giấy và các sản phẩm từ giấy |
| 9.117.660 |
| -11,96 |
Sản phẩm hóa chất |
| 8.952.045 |
| 28,13 |
Hàng rau quả |
| 8.927.077 |
| 34,89 |
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận |
| 8.760.212 |
| 0,32 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc |
| 6.486.394 |
| 48,85 |
Dây điện và dây cáp điện |
| 5.597.775 |
| 319,49 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày |
| 4.272.881 |
| -2,76 |
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm |
| 4.178.675 |
| 8,05 |
Sản phẩm mây, tre, cói và thảm |
| 4.099.160 |
| 36,31 |
Sản phẩm gốm, sứ |
| 3.956.726 |
| 22,93 |
Sản phẩm từ cao su |
| 3.939.330 |
| 7,07 |
Hạt tiêu | 786 | 3.877.716 | 83,64 | 15,97 |
Chất dẻo nguyên liệu | 1.169 | 1.615.531 | -3,07 | -6,11 |
Gạo | 2.400 | 1.591.380 | -24,24 | -13,01 |
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện |
| 1.353.754 |
| 357,74 |
Clanhke và xi măng | 4.697 | 493.522 | -94,56 | -83,5 |
(Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Để tận dụng tốt nhất Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA) hiệu lực từ năm 2010, mang lại hiệu quả rất cao cho các nước trong khối, trong đó có Việt Nam, thì các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý chủ động nguồn nguyên vật liệu, đa dạng, nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa, theo Thương vụ Việt Nam tại Australia.
Phó Tổng lãnh sự Việt Nam tại Sydney, Trưởng cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Australia đánh giá: Kim ngạch thương mại 2 chiều Việt Nam - Australia trong 10 năm gần đây tăng gấp đôi, từ khoảng 3 tỷ lên hơn 6 tỷ USD, tương đương bình quân gần 10%/năm, riêng năm 2017 tăng 22,1%. Tuy nhiên, so với tiềm năng, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa 2 quốc gia còn khiêm tốn. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Australia còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của quốc gia này. Một trong những nguyên nhân là do doanh nghiệp Việt Nam còn khá lúng túng trong việc tìm hiểu, tận dụng các cam kết, ưu đãi, dù AANZFTA đã có hiệu lực từ năm 2010.
Đơn cử, để tận dụng những ưu đãi từ Hiệp định AANZFTA, hàng xuất khẩu phải đáp ứng quy tắc xuất xứ. Theo kinh nghiệm của Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia - những quốc gia đã tận dụng tốt AANZFTA, đáp ứng các tiêu chí này, doanh nghiệp phải kết hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nước có chất lượng để đảm bảo nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào ổn định cho sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, có thể xem xét việc liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài (các nước tham gia hiệp định) để cung ứng những nguyên phụ liệu mà trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất nhưng chất lượng chưa tốt.
Australia là quốc gia sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm nhưng bù lại, họ cũng có yêu cầu rất cao về chất lượng. Phó Tổng lãnh sự Việt Nam tại Sydney, Trưởng cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Australiadù cho biết, Hiệp định AANZFTA đang mang lại những ưu đãi đáng kể nhưng không có nghĩa doanh nghiệp xuất khẩu ồ ạt, mà cần chú trọng xây dựng thương hiệu cho hàng xuất khẩu. Giải pháp ưu việt nhất là cung cấp các sản phẩm đổi mới có giá trị gia tăng cao thay vì các nguyên liệu thô và chủng loại hàng rẻ tiền. Việc này sẽ giúp nâng tầm thương hiệu Việt Nam, xây dựng lòng tin đối với người tiêu dùng và thay đổi nhận thức về việc Việt Nam chỉ cung cấp các sản phẩm rẻ tiền, chất lượng không tốt. Đồng thời, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường thông qua nhiều kênh khác nhau như hội chợ triển lãm, thương vụ ở nước ngoài, các tổ chức xúc tiến thương mại, các hiệp hội ngành hàng…
Nguồn: VITIC/Báo Công thương điện tử/Viannet
Dù lập nhiều kỳ tích nhưng trái cây Việt Nam xuất khẩu vẫn còn cảnh “sáng rau, chiều rác” vì nhanh héo. Ngày đầu giá bán có thể 10 USD/kg nhưng sang ngày thứ ba chỉ giá chỉ còn 1/3...
Bốn tháng đầu năm 2018, kim ngạch nhập khẩu sản phẩm hóa chất đạt 1,5 tỷ USD, chiếm 2,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của cả nước.
Nhập khẩu nguyên liệu nhựa từ phần lớn các thị trường đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó nhập khẩu từ thị trường Ấn Độ tăng mạnh nhất.
Bốn tháng đầu năm 2018, lượng cao su xuất sang các thị trường chủ lực duy trì tăng trưởng. Dự báo thời gian tới vẫn khả quan đặc biệt là thị trường Trung Quốc.
Dù ngành sản xuất vải chưa cung ứng đủ cho ngành may trong nước, nhưng khâu sản xuất trước vải là sợi đang góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu chung của toàn ngành. Với tốc độ tăng trưởng cao như hiện nay, dự báo xuất khẩu xơ sợi của Việt Nam sẽ đạt khoảng 3,9 tỷ USD trong năm 2018.
Nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may, da, giày từ rất nhiều thị trường tăng kim ngạch so với cùng kỳ, trong đó nhập từ thị trường Canada tăng vượt trội 179,8%.
Bốn tháng đầu năm 2018, Hàn Quốc tăng nhập khẩu nhóm hàng than đá từ thị trường Việt Nam, tuy lượng nhập chỉ đạt 135,5 nghìn tấn, trị giá 17 triệu USD, tăng gấp hơn 4 lần về lượng và 8 lần trị giá so với cùng kỳ 2017.
Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2018, nhập khẩu rau quả về Việt Nam đạt trên 456,57 triệu USD, tăng mạnh 44,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Cơ quan hải quan cho biết mặt hàng phế liệu có trị giá thấp, DN nhập khẩu từ nước ngoài nhiều trường hợp còn được đối tác trả tiền cho việc thu gom phế liệu
Thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng kim ngạch XNK của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 5 (từ 1-15/5/2018) đạt 18,93 tỷ USD, tăng nhẹ 3,7% (tương ứng tăng 667 triệu USD) so với nửa cuối tháng 4.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự