Sau khi xuất khẩu giảm ở tháng 9/2018 thì nay sang tháng 10/2018 xơ sợi xuất khẩu đã tăng trở lại, 8,6% về lượng và 7,8% trị giá đạt 124,8 nghìn tấn; 335,35 triệu USD.

10 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu xi măng và clanhke sang thị trường Trung Quốc tăng đột biến, gấp 47,3 lần về lượng và 56,7 lần về trị giá.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, 10 tháng năm 2018, xuất khẩu xi măng và clanhke của Việt Nam đã tăng 73,4% về lượng và 90,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017. Cụ thể, tổng lượng xi măng và clanhke xuất khẩu đã đạt 26,21 triệu tấn, thu về trên 1 tỷ USD.
Chỉ tính riêng trong tháng 10/2018, Việt Nam đã xuất khẩu 2,86 triệu tấn xi măng và clanhke, trị giá 121 triệu USD, so với tháng 9/2018, tăng 3,95 về lượng và tăng 7% trị giá.
Trung Quốc – với vị trí và khoảng cách địa lý gần với Việt Nam, trở thành thị trường chính xuất khẩu xi măng và clanhke, chiếm 29% tổng lượng xuất khẩu đạt 7,62 triệu tấn đạt 276,83 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ năm 2017, tốc độ xuất khẩu xi măng sang thị trường Trung Quốc tăng đột biến gấp 47,3 lần về lượng (tức tăng 4628,73%) và gấp 56,7 lần về trị giá (tức tăng 5568,75%). Tính riêng tháng 10/2018, lượng xi măng và clanhke xuất sang đây đạt trên 1 triệu tấn, trị giá 41,96 triệu USD, tăng 25,09% về lượng và 29,41% trị giá so với tháng 9/2018, nhưng nếu so với tháng 10/2017 thì tăng mạnh gấp 14,1 lần về lượng (tức tăng 1310,84%) và gấp 18 lần trị giá (tức tăng 1748,45%).
Chiếm thị phần lớn đứng thứ hai là các nước Đông Nam Á 25%, đạt 6,58 trệu tấn, trị giá 301,69 triệu USD, tăng 46,54% về lượng và 51,74% trị giá so với cùng kỳ.
Kế đến là thị trường Bangladesh, chiếm 23% đạt 5,99 triệu tấn, trị giá 199,32 triệu USD, giảm 2,86% về lượng nhưng tăng 9,84% trị giá so với 10 tháng năm 2017.
Nhìn chung, 10 tháng đầu năm 2018 lượng xi măng và clanhke sang các thị trường đều tăng trưởng, số thị trường với lượng xuất sụt giảm so với cùng kỳ chiếm 46%, theo đó xuất sang thị trường Myanmar giảm nhiều nhất 99,41% về lượng và 98,03% trị giá; kế đến là thị trường Austrlaia 79,87% về lượng và 68,15% trị giá so với cùng kỳ.
Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu xi măng và clanhke 10 tháng đầu năm 2018 so với cùng kỳ năm 2017 thì có thêm thị trường Saudi Arabia, Indonesia và Chile, tuy lượng xuất chỉ đạt lần lượt 51,2 nghìn tấn; 14 tấn; 211,7 nghìn tấn, trị giá thu về tương ứng 2,2 triệu USD; 30,27 nghìn USD và trên 7 nghìn USD.
Thị trường xuất khẩu xi măng và clanhke 10 tháng năm 2018
Thị trường | 10T/2018 | +/- so với cùng kỳ 2017(%)* | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Trung Quốc | 7.620.817 | 276.831.838 | 4,628,73 | 5,568,75 |
Bangladesh | 5.991.155 | 199.325.707 | -2,86 | 9,84 |
Philippines | 5.531.863 | 256.836.380 | 48,91 | 55,62 |
Đài Loan | 1.374.583 | 47.344.757 | 41,96 | 63,32 |
Pê Ru | 906.915 | 41.066.625 | 88,75 | 81,44 |
Malaysia | 681.203 | 23.635.914 | 60,52 | 75,83 |
Campuchia | 257.033 | 13.267.685 | 34,7 | 32,75 |
Mozambique | 156.120 | 5.136.461 | -68,62 | -65,1 |
Kenya | 141.864 | 4.542.966 | 48,16 | 66,48 |
Sri Lanka | 128.059 | 4.230.609 | -70,78 | -67,46 |
Lào | 115.478 | 7.905.177 | -18,12 | -15,24 |
Australia | 73.707 | 3.929.112 | -79,87 | -68,15 |
Myanmar | 135 | 20.250 | -99,41 | -98,03 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Chủ tịch HIệp hội Xi măng Việt Nam, Nguyễn Quang Cung: “Xuất khẩu xi măng đã vượt kỳ vọng của ngành trên 20%, trong điều kiện phải đối đầu sự cạnh tranh với các tập đoàn xi măng của các nước láng giềng và xu thế giảm giá xi măng, clanhker vốn đã kéo dài 2 năm nay”.
Theo Vinanet.vn
Sau khi xuất khẩu giảm ở tháng 9/2018 thì nay sang tháng 10/2018 xơ sợi xuất khẩu đã tăng trở lại, 8,6% về lượng và 7,8% trị giá đạt 124,8 nghìn tấn; 335,35 triệu USD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, lượng hạt tiêu xuất khẩu của cả nước trong 10 tháng đầu năm 2018 tăng 8,1% so với cùng kỳ, đạt 207.824 tấn, nhưng giá trị thu về lại giảm mạnh 33,2%, đạt 679,94 triệuUSD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) 10 tháng đầu năm 2018 đạt 4,4 tỷ USD, tăng nhẹ 0,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhập siêu từ Hàn Quốc trị giá 23,99 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm 2018, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
10 tháng đầu năm 2018, lượng cà phê cả nước xuất khẩu 1,59 triệu tấn, thu về trên 3 tỷ USD, tăng 34% về lượng và tăng 10,9% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Nếu như tháng 9/2018 xuất khẩu hàng mây, tre cói và thảm sang thị trường Ấn Độ tăng trưởng, thì nay sang tháng 10/2018 tốc độ xuất sang thị trường này tiếp tục giữ đà tăng 16,12%. Nếu tính chung 10 tháng năm 2018 thì tăng đột biến, tăng gấp 16,6 lần (tức tăng 1556,02%) tuy kim ngạch chỉ đạt 4,53 triệu USD.
10 tháng đầu năm 2018, sản phẩm gốm sứ chủ yếu xuất sang các nước Đông Nam Á, chiếm 23,5% tỷ trọng với tốc độ tăng 19,31% so với cùng kỳ.
Là mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu khá cao trong nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, chỉ đứng sau mặt hàng gỗ và sản phẩm, thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh đã đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước trên 830 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2018, giảm 0,07% so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt 7,22 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, riêng tháng 10/2018 tăng 18,2% so với tháng 9/2018 và cũng tăng 25,2% so với cùng tháng năm ngoái, đạt 845,45 triệu USD.
Theo số liệu thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 10 năm 2018, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 194,82 tỷ USD, tăng 12,4%.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự