10 tháng đầu năm 2018, lượng cà phê cả nước xuất khẩu 1,59 triệu tấn, thu về trên 3 tỷ USD, tăng 34% về lượng và tăng 10,9% về kim ngạch so với cùng kỳ.

Theo số liệu thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan, tính đến hết tháng 10 năm 2018, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 194,82 tỷ USD, tăng 12,4%.
Các nhóm hàng nhập khẩu chính, gồm:
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: kim ngạch trong tháng 10 là 3,88 tỷ USD, tăng 9,7% so với tháng 9, đưa kim ngạch nhập khẩu nhóm này trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt 34,69 tỷ USD tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Với quy mô nhập khẩu này, máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện vẫn duy trì ngôi vị dẫn đầu được xác lập kể từ năm 2017.
Các thị trường cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong 10 tháng qua chủ yếu gồm: thị trường Hàn Quốc với kim ngạch 14,29 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm trước, đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc với 6,26 tỷ USD, tăng 9,6%; tiếp theo là thị trường Nhật Bản với 3,39 tỷ USD, tăng 38,9%...
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trị giá nhập khẩu trong tháng 10/2018 đạt 3,05 tỷ USD, tăng 9,9% so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng này trong 10 tháng/2018 đạt 27,61 tỷ USD giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2017.
Trị giá nhập khẩu của nhóm hàng này trong 10 tháng qua có xuất xứ từ: Trung Quốc đạt 9,74 tỷ USD, tăng 8,2%; từ Hàn Quốc đạt 5,07 tỷ USD, giảm 31,6% và từ Nhật Bản đạt 3,66 tỷ USD, tăng 3,4%... so với cùng kỳ năm 2017.
Điện thoại các loại và linh kiện: nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 1,68 tỷ USD, giảm 1,4% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 10/2018 trị giá nhập khẩu nhóm hàng này đạt gần 12,68 tỷ USD giảm 0,9% so với cùng kỳ năm 2017.
Hàn Quốc và Trung Quốc vẫn là 2 thị trường chính cung cấp điện thoại các loại và linh kiện trong 10 tháng/2018 cho Việt Nam với trị giá chiếm 93,3% trị giá nhập khẩu của mặt hàng này của cả nước, trong đó: từ Trung Quốc là 6,94 tỷ USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước; nhập khẩu từ Hàn Quốc là 4,89 tỷ USD, giảm 1,4%; …
Chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm từ chất dẻo: trong tháng 10/2018, nhập khẩu hai nhóm hàng chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm từ chất dẻo đạt gần 1,4 tỷ USD, tăng 13,3% so với tháng trước. Qua đó, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này trong 10 tháng đạt 12,33 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2017.
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm từ các quốc gia: Hàn Quốc đạt 2,86 tỷ USD tăng 12,2%; Trung Quốc đạt 2,61 tỷ USD tăng 13,5% ; Đài Loan đạt 1,27 tỷ USD tăng 19,9%... so với 10 tháng/2017.
Vải các loại: nhập khẩu nhóm hàng này trong tháng 10 đạt 1,15 tỷ USD, tăng 15% so với tháng trước, đưa trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng từ đầu năm 2018 đạt 10,56 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước.
Vải nhập khẩu của Việt Nam trong 10 tháng/2018 chủ yếu từ thị trường Trung Quốc với 5,87 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng thời gian năm trước; Hàn Quốc với 1,77 tỷ USD, tăng 7,5%; từ Đài Loan với 1,36 tỷ USD, tăng 3,6%; Nhật Bản với 607 triệu USD tăng 13,4% …
Sắt thép các loại: trong tháng nhập khẩu nhóm hàng này là 1,13 triệu tấn, trị giá đạt 853 triệu USD, tăng 8,1% về lượng và tăng 8,2% về trị giá. Trong 10 tháng/2018, lượng nhập khẩu sắt thép các loại đạt 11,46 triệu tấn, trị giá 8,36 tỷ USD, giảm 9,9% về lượng nhưng tăng 10,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Trong 10 tháng/2018, Trung Quốc tiếp tục là thị trường cung cấp sắt thép các loại lớn nhất vào Việt Nam với hơn 5,3 triệu tấn, trị giá gần 3,83 tỷ USD, giảm 13,1% về lượng, nhưng tăng 9,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Đứng thứ 2 là Nhật Bản với 1,86 triệu tấn, trị giá 1,32 tỷ USD, tăng 0,4% về lượng và tăng 16,7% về trị giá; đứng thứ ba là Hàn Quốc với 1,45 triệu tấn, trị giá đạt 1,2 tỷ USD tăng 2,5% về lượng và tăng 19,5% về trị giá…
Hóa chất và sản phẩm từ hóa chất: nhập khẩu hai nhóm hàng này trong tháng 10/2018 có trị giá 947 triệu USD, tăng 18,6% so với tháng trước, đưa trị giá nhập khẩu hai nhóm hàng này 10 tháng/2018 đạt 8,38 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước.
Hóa chất và sản phẩm trong 10 tháng tính từ đầu năm 2018 nhập khẩu về Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc với 2,43 tỷ USD, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2017; xuất xứ từ Đài Loan với gần 980 triệu USD, tăng 29,8%; xuất xứ từ Hàn Quốc với 910 triệu USD, tăng 13,3%...
Xăng dầu các loại: lượng nhập khẩu trong tháng 10/2018 đạt 664 nghìn tấn, trị giá 489 triệu USD, giảm 5,2% về lượng và giảm 2,6% về trị giá so với tháng trước, đưa tổng lượng nhập khẩu xăng dầu các loại trong 10 tháng/2018 đạt 9,98 triệu tấn, trị giá 6,75 tỷ USD, giảm 5,5% về lượng và tăng 19,5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Xăng dầu các loại được nhập khẩu về Việt Nam trong 10 tháng/2018 chủ yếu có xuất xứ từ Ma-lai-xi-a với 2,87 triệu tấn, tăng 33,9%; Hàn Quốc với 2,33 triệu tấn, giảm 4,3%; Singapore với 2,21 triệu tấn, giảm 40,5%; Trung Quốc: 1,23 triệu tấn, tăng 49,7%; Thái Lan: 1,13 triệu tấn, giảm 18,6%... so với 10 tháng/2017.
Nguyên phụ liệu dệt may, da, giày: nhập khẩu trong tháng đạt trị giá 524 triệu USD, tăng 11,3% so với tháng trước, qua đó đưa trị giá nhập khẩu trong 10 tháng đầu năm đạt 4,79 tỷ USD, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 10 tháng từ đầu năm 2018, doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu nhóm hàng chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với 1,83 tỷ USD, tăng 7,2%; xuất xứ từ Hàn Quốc với 644 triệu USD, tăng nhẹ 2,5%; xuất xứ Đài Loan với 376 triệu USD, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm 2017…
Nguồn: Baohaiquan.vn
10 tháng đầu năm 2018, lượng cà phê cả nước xuất khẩu 1,59 triệu tấn, thu về trên 3 tỷ USD, tăng 34% về lượng và tăng 10,9% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Nếu như tháng 9/2018 xuất khẩu hàng mây, tre cói và thảm sang thị trường Ấn Độ tăng trưởng, thì nay sang tháng 10/2018 tốc độ xuất sang thị trường này tiếp tục giữ đà tăng 16,12%. Nếu tính chung 10 tháng năm 2018 thì tăng đột biến, tăng gấp 16,6 lần (tức tăng 1556,02%) tuy kim ngạch chỉ đạt 4,53 triệu USD.
10 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu xi măng và clanhke sang thị trường Trung Quốc tăng đột biến, gấp 47,3 lần về lượng và 56,7 lần về trị giá.
10 tháng đầu năm 2018, sản phẩm gốm sứ chủ yếu xuất sang các nước Đông Nam Á, chiếm 23,5% tỷ trọng với tốc độ tăng 19,31% so với cùng kỳ.
Là mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu khá cao trong nhóm hàng thủ công mỹ nghệ, chỉ đứng sau mặt hàng gỗ và sản phẩm, thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh đã đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước trên 830 triệu USD trong 10 tháng đầu năm 2018, giảm 0,07% so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt 7,22 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2017; trong đó, riêng tháng 10/2018 tăng 18,2% so với tháng 9/2018 và cũng tăng 25,2% so với cùng tháng năm ngoái, đạt 845,45 triệu USD.
Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 10/2018 tăng 19,2% về lượng và tăng 19,9% về trị giá so với tháng 9/2018, đạt 182,28 nghìn tấn, trị giá 236,29 triệu USD; tăng 57,4% về lượng và tăng 32,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu hạt điều ra thị trường nước ngoài tăng 4,5% về lượng nhưng giảm 2,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước, đạt 304.904 tấn, thu về 2,82 tỷ USD. Giá xuất khẩu trung bình giảm 6,8%, đạt 9.239 USD/tấn.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu rau quả ra thị trường nước ngoài 10 tháng đầu năm 2018 tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2017, ước đạt 7,24 tỷ USD; trong đó, riêng tháng 10/2018 đạt 879,16 triệu USD, tăng 13% so với tháng liền kề trước đó và cũng tăng 2,7% so với cùng tháng năm 2017.
Nếu như tháng 9/2018 xuất khẩu than các loại suy giảm cả lượng và trị giá, thì nay sang tháng 10 đã tăng mạnh trở lại, đặc biệt là về lượng tăng gấp 2,2 lần (tức tăng 122%) và trị giá tăng 84,1% so với tháng 9/2018 đạt 246,87 nghìn tấn, trị giá 30,34 triệu USD.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự