Xuất khẩu gạo tăng cả lượng và giá trị những tưởng doanh nghiệp sẽ vui mừng thế nhưng doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang “kêu” khó khi giá xuất khẩu không theo kịp giá thu mua.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hàng dệt may của cả nước trong tháng 6/2018 tăng 16,6% về kim ngạch so với tháng 5/2018 và cũng tăng 15,6% so với tháng 6/2017, đạt gần 2,75 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong cả 6 tháng đầu năm lên 13,64 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 12% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại của cả nước.
Đáng chú ý là xuất khẩu hàng dệt may trong 6 tháng đầu năm nay sang hầu hết các thị trường đều tăng kim ngạch với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó xuất khẩu sang thị trường Ghana tăng mạnh nhất 198,7%, mặc dù kim ngạch chỉ đạt 6,22 triệu USD. Bên cạnh đó, xuất khẩu cũng tăng trưởng mạnh ở một số thị trường như: Phần Lan tăng 112,3%, đạt 7,75 triệu USD; Angola tăng 78%, đạt 8,88 triệu USD; Hungari tăng 69,5%, đạt 2,23 triệu USD; Thổ Nhĩ Kỳ tăng 69,2%, đạt 24,5 triệu USD; Ba Lan tăng 66,5%, đạt 29,37 triệu USD.
Ngược lại, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Senegal sụt giảm mạnh nhất 89,4% so với cùng kỳ, đạt 0,14 triệu USD. Ngoài ra, xuất khẩu cũng giảm mạnh ở mức 2 con số ở một vài thị trường như: Slovakia, Nga và Nigeria với mức giảm tương ứng 37,2%, 14,2% và 13,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017.
Mỹ là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại sản phẩm may mặc của Việt Nam, chiếm 46,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước, đạt 6,4 tỷ USD, tăng trưởng 11,2% so với cùng kỳ năm 2017. Thị trường Nhật Bản đứng thứ 2 về kim ngạch, chiếm 12,5% trong tổng kim ngạch, đạt 1,7 tỷ USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ; tiếp đến thị trường Hàn Quốc đạt 1,3 tỷ USD, chiếm 9,5%, tăng 25,1%; xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 632,58 triệu USD, chiếm 4,6%, tăng 45,2%.
Xuất khẩu hàng dệt may 6 tháng đầu năm 2018
ĐVT: USD
Thị trường | T6/2018 | +/- so với T5/2018(%) | 6T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%) |
Tổng kim ngạch XK | 2.745.418.426 | 16,62 | 13.641.945.526 | 16,11 |
Mỹ | 1.255.019.372 | 15,22 | 6.395.920.325 | 11,23 |
Nhật Bản | 307.757.125 | 8,92 | 1.700.790.678 | 23,8 |
Hàn Quốc | 217.995.733 | 26,5 | 1.297.428.944 | 25,1 |
Trung Quốc | 151.465.943 | 33,28 | 632.576.221 | 45,19 |
Đức | 86.961.319 | 22,42 | 375.204.112 | 12,41 |
Anh | 75.018.573 | 29,51 | 347.747.082 | 4,5 |
Canada | 72.029.993 | 11,43 | 301.774.121 | 15,5 |
Hà Lan | 73.215.049 | 20,73 | 293.405.447 | 8,18 |
Pháp | 56.978.464 | 27,25 | 249.306.023 | 20,08 |
Campuchia | 42.185.559 | -5,85 | 212.247.900 | 36,09 |
Tây Ban Nha | 49.023.296 | 34,59 | 201.121.174 | 4,81 |
Italia | 26.338.902 | 4,64 | 118.734.302 | 10,98 |
Hồng Kông (TQ) | 32.055.241 | 36,07 | 118.047.531 | 15,68 |
Bỉ | 28.345.161 | 38,96 | 116.506.734 | 12,71 |
Đài Loan(TQ) | 21.771.823 | 31,34 | 100.710.729 | 4,72 |
Australia | 18.860.684 | 15,1 | 98.211.327 | 19,92 |
Indonesia | 17.263.133 | 29,38 | 83.901.080 | 31,9 |
Nga | 21.551.889 | 4,7 | 77.376.792 | -14,2 |
Thái Lan | 14.867.871 | 3,27 | 71.382.027 | 48,39 |
Chile | 12.825.515 | 34,59 | 53.404.512 | 14,88 |
Singapore | 14.233.625 | 71,08 | 53.346.389 | 32,84 |
Malaysia | 10.966.331 | 8,8 | 50.681.743 | 10,54 |
Philippines | 11.282.022 | -11,03 | 49.649.519 | 16,03 |
U.A.E | 9.383.824 | 8,53 | 46.703.880 | 7,75 |
Mexico | 10.462.187 | 14,08 | 45.439.282 | 7,8 |
Đan Mạch | 8.809.445 | 5,72 | 43.640.816 | 37,95 |
Thụy Điển | 9.224.330 | 8,92 | 41.678.974 | 23,24 |
Ba Lan | 5.941.109 | 10,63 | 29.374.945 | 66,54 |
Ấn Độ | 5.699.739 | -14,23 | 27.300.478 | 35,01 |
Brazil | 4.679.443 | 4,55 | 27.101.084 | 8,45 |
Bangladesh | 4.544.686 | 12,15 | 25.593.387 | -3,39 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 5.301.528 | 4,4 | 24.495.104 | 69,16 |
Saudi Arabia | 3.897.800 | 0,55 | 23.264.968 | 5,01 |
Áo | 4.839.404 | -24,2 | 22.436.789 | 12,47 |
Nam Phi | 1.915.559 | -10,01 | 13.690.734 | 4,02 |
Na Uy | 2.576.674 | 47,62 | 12.186.277 | 14,87 |
Myanmar | 2.081.891 | 0,45 | 11.269.479 | 61,44 |
Israel | 2.861.761 | 47,45 | 10.802.254 | 8,88 |
Achentina | 1.728.331 | 3,68 | 10.750.296 | 7 |
Panama | 2.059.562 | -10,61 | 9.789.405 | 24,4 |
New Zealand | 1.310.336 | 0,15 | 8.915.675 | 2,48 |
Angola | 2.316.315 | -8,37 | 8.883.897 | 78,08 |
Phần Lan | 1.793.163 | 8,39 | 7.754.375 | 112,26 |
Ghana | 5.117.732 | 399,1 | 6.219.357 | 198,71 |
Thụy Sỹ | 1.200.743 | 77,13 | 5.762.454 | 27,28 |
Séc | 938.953 | -43,35 | 5.718.640 | 41,89 |
Hy Lạp | 1.443.234 | 22,78 | 5.046.171 | -2,86 |
Nigeria | 816.487 | 1,61 | 4.155.392 | -13,62 |
Lào | 570.211 | -46,12 | 3.105.990 | -1,64 |
Ai Cập | 512.082 | -17,45 | 2.845.883 | 59,2 |
Hungary | 390.511 | -23,1 | 2.231.592 | 69,45 |
Ukraine | 377.524 | -39,48 | 2.086.006 | 25,51 |
Slovakia | 125.800 | -5,22 | 571.055 | -37,16 |
Senegal | 46.970 | -48,97 | 139.010 | -89,41 |
(Vinanet tínhtoán theo số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Xuất khẩu gạo tăng cả lượng và giá trị những tưởng doanh nghiệp sẽ vui mừng thế nhưng doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang “kêu” khó khi giá xuất khẩu không theo kịp giá thu mua.
Bộ Tài chính đang dự thảo Thông tư hướng dẫn miễn, giảm thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường; sản phẩm từ hoạt động tái chế, xử lý chất thải quy định tại Nghị định số 19/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Việc cắt giảm thuế quan theo các Hiệp định thương mại tự do FTA đã ký kết tạo thuận lợi cho các DN trong nước cũng như quốc tế trong việc trao đổi, giao thương hàng hóa, tuy nhiên việc cắt giảm thuế quan cũng dẫn đến xu thế gian lận nhiều hơn về C/O để được hưởng ưu đãi.
Chính phủ chỉ đạo giảm tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành tại giai đoạn thông quan từ 30- 35% hiện nay xuống còn 15% đến hết năm 2016; Đổi mới căn bản phương thức quản lý, kiểm tra chuyên ngành trên cơ sở nguyên tắc quản lý rủi ro, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của từng doanh nghiệp; áp dụng chế độ doanh nghiệp ưu tiên.
Xuất khẩu gạo theo đường tiểu ngạch đang tồn tại nhiều rủi ro, bất cập cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep) dẫn số liệu từ hải quan cho biết xuất khẩu cá ngừ của VN sang Trung Quốc trong ba tháng đầu năm nay đạt gần 7 triệu USD.
Có công ty đành từ bỏ xuất khẩu gạo, chuyển sang cung ứng cho thị trường nội địa.
Sức cạnh tranh yếu đang khiến cho hàng hóa của Việt Nam “đuối sức”, nhất là khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Làm sao để nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa vẫn là câu hỏi chưa được trả lời thấu đáo.
Theo số liệu thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu vừa được Tổng cục Hải quan công bố, trong 3 tháng đầu năm 2016, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam đạt 76,17 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó trị giá xuất khẩu là 38,77 tỷ USD, tăng 6,6%.
Theo phản ánh của cơ quan Hải quan, việc thực hiện thủ tục hải quan cho những lô hàng phế liệu NK gặp vướng mắc do những quy định chưa rõ ràng tại Thông tư 41/2015/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường trong NK phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự