Trong 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu hạt tiêu sang hầu hết các thị trường sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ có 2 thị trường tăng kim ngạch là Thổ Nhĩ Kỳ và Đức.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hy Lạp trong 5 tháng đầu năm 2019 đạt 111,84 triệu USD, tăng 14,12% so với cùng kỳ năm 2018.
Việt Nam và Hy Lạp có quan hệ hợp tác truyền thống hữu nghị lâu đời. Hai nước cũng thường xuyên hợp tác tích cực và ủng hộ lẫn nhau trên các diễn đàn đa phương trong khu vực và quốc tế, như Liên hợp quốc, ASEM, Diễn đàn ASEAN - EU.
Hy Lạp là nước sớm phê chuẩn Hiệp định Hợp tác và đối tác Việt Nam - EU (PCA) và ủng hộ việc sớm thông qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Hy Lạp cũng là nước thành viên EU luôn ủng hộ Việt Nam tăng cường quan hệ với EU và mong muốn trở thành “cửa ngõ” cho Việt Nam trong mối quan hệ với EU.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới còn khó khăn nhưng kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Hy Lạp đã có những bước tiến đáng khích lệ, tăng đều trong những năm qua, từ 196 triệu USD năm 2015 lên 335 triệu USD năm 2017, tuy nhiên vẫn chưa phản ánh đúng tiềm năng và mong muốn của cả hai nước.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hy Lạp trong 5 tháng đầu năm 2019 đạt 111,84 triệu USD, tăng 14,12% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, chiếm thị phần cao nhất tới 40,65% là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện. Trong tháng 5/2019, nhóm hàng này có trị giá xuất khẩu tăng nhẹ 9,52% so với tháng trước đó, đạt 8,85 triệu USD và đưa tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2019 của mặt hàng này lên 45,47 triệu USD, tăng 9,89% so với cùng kỳ năm ngoái.
Phương tiện vận tải và phụ tùng là nhóm hàng tuy chiếm thị phần nhỏ 3,23% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng lại có trị giá tăng mạnh 146,97% trong 5 tháng/2019 so với cùng kỳ năm 2018, đạt 3,61 triệu USD. Gỗ và sản phẩm gỗ trong giai đoạn này cũng tăng 39,13% về trị giá, đạt 2,88 triệu USD.
Trong 5 tháng đầu năm 2018 có khá nhiều nhóm hàng mà Hy Lạp không nhập khẩu từ Việt Nam như sản phẩm từ chất dẻo, kim loại thường khác và sản phẩm, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện… Tuy nhiên sang cùng kỳ năm 2019, những mặt hàng này đã được Hy Lạp đón nhận.
Cũng có hai nhóm hàng có trị giá xuất khẩu sụt giảm nhẹ trong 5 tháng/2019 là cà phê giảm 13,92% đạt 8,60 triệu USD và hàng dệt, may giảm 9,3% đạt 3,26 triệu USD.
Việt Nam và Hy Lạp tuy là hai quốc gia nằm ở hai châu lục khác nhau nhưng có nhiều nét tương đồng, đều có vị trí địa chính trị quan trọng, có nền văn hóa lâu đời, có lịch sử trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Những yếu tố này là điều kiện thuận lợi để hai bên tiếp tục tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại...
Việt Nam được coi là nền kinh tế đang phát triển năng động của Đông Nam Á, đang trở thành một điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nền kinh tế Hy Lạp hiện tại đã có những chuyển biến tích cực, đang dần phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng. Việc EVFTA được phê chuẩn trong ngày 30/6 tới cũng sẽ góp phần tạo hành lang pháp lý và cơ hội thúc đẩy giao thương, thương mại giữa hai nước.
Hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Hy Lạp 5T/2019
Mặt hàng | 5T/2019 | +/- so với cùng kỳ 2018 (%)* | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng |
| 111.848.976 |
| 14,12 |
Hàng thủy sản |
| 4.342.194 |
| 13,42 |
Hạt điều | 428 | 3.217.710 | 62,74 | 21,69 |
Cà phê | 5.425 | 8.605.235 | 0,44 | -13,92 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
| 2.042.612 |
|
|
Gỗ và sản phẩm gỗ |
| 2.888.710 |
| 39,13 |
Hàng dệt, may |
| 3.267.800 |
| -9,30 |
Giày dép các loại |
| 12.950.245 |
| 0,98 |
Sản phẩm từ sắt thép |
| 1.566.814 |
| 18,31 |
Kim loại thường khác và sản phẩm |
| 83.798 |
|
|
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
| 7.737.895 |
|
|
Điện thoại các loại và linh kiện |
| 45.467.757 |
| 9,89 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng |
| 3.616.482 |
| 146,97 |
Hàng hóa khác |
| 16.061.724 |
|
|
(*Tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Trong 5 tháng đầu năm nay, xuất khẩu hạt tiêu sang hầu hết các thị trường sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ có 2 thị trường tăng kim ngạch là Thổ Nhĩ Kỳ và Đức.
5 tháng đầu năm 2019 kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước đạt 1,76 tỷ USD, tăng 5,9% so với 5 tháng đầu năm 2018.
Sau khi sụt giảm ở tháng 4/2019, sang tháng 5/2019 xuất khẩu cao su đã tăng trở lại cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 2,7%; 3,1% đạt 77,4 nghìn tấn, trị giá 111,7 triệu USD.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong 5 tháng đầu năm 2019 cả nước xuất khẩu 1,06 triệu tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, giảm 19% so với cùng kỳ năm trước; thu về 409,02 triệu USD, giảm 12,6%; giá xuất khẩu trung bình đạt 385 USD/tấn, tăng 7,9%.
Kim ngạch xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ 5 tháng đầu năm 2019 đạt gần 4,02 tỷ USD, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm 2018.
Về kinh tế, trao đổi thương mại giữa hai nước tăng vượt bậc, gấp 3 lần trong vòng 10 năm qua (từ 1,5 tỷ USD năm 2009 lên hơn 4,6 tỷ USD năm 2018). Việt Nam đang là đối tác thương mại lớn nhất của Italy tại ASEAN và ngược lại, Italy là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam trong EU.
Kể từ khi Việt Nam và Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao (7/1/1972), phát triển thành đối tác chiến lược (7/2007) và trở thành đối tác chiến lược toàn diện (9/2016), thương mại hai chiều Việt Nam - Ấn Độ từng bước khởi sắc. Hệ thống chính sách, pháp luật về thương mại giữa Việt Nam và Ấn Độ đã và đang xây dựng, đổi mới, hoàn thiện theo hướng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, tháng 5/2019 cả nước đã nhập khẩu 330,36 nghìn tấn phân bón các loại, trị giá 95,96 triệu USD, giảm 10% về lượng và giảm 12,4% về trị giá so với tháng 4/2019.
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu giày dép 5 tháng đầu năm 2019 đạt 7,11 tỷ USD tăng 13,9% so với 5 tháng đầu năm 2018; trong đó riêng tháng 5/2019 đạt 1,71 tỷ USD, tăng 18,1% so với tháng 4/2019 và tăng 11,9% so với tháng 5/2018.
Việt Nam và Liên bang Nga đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2001 và nâng lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012. Liên bang Nga chiếm hơn 90% trong tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và EAEU. Các mặt hàng điện tử, dệt may, da giày, thủy sản, cà phê... của Việt Nam ngày càng được người tiêu dùng Nga quan tâm sử dụng.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự