5 tháng đầu năm 2016, lượng khí hóa lỏng nhập khẩu biến động, nếu như tháng đầu tiên của năm suy giảm, thì sang tháng 2 tăng và giảm liên tiếp trong hai tháng 3 và 4, nhưng sang tháng 5 lại nhập tăng trở lại.

Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu giày dép 5 tháng đầu năm 2019 đạt 7,11 tỷ USD tăng 13,9% so với 5 tháng đầu năm 2018; trong đó riêng tháng 5/2019 đạt 1,71 tỷ USD, tăng 18,1% so với tháng 4/2019 và tăng 11,9% so với tháng 5/2018.
Hai thị trường tỷ USD tiêu thụ giày dép của Việt Nam là Mỹ, EU; trong đó xuất sang Mỹ đạt trên 2,61 tỷ USD, chiếm 36,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của cả nước, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2018; xuất sang thị trường EU đạt gần 1,98 tỷ USD, chiếm 27,8%, tăng 9,8%
Ngoài 2 thị trường lớn trên, còn một số thị trường cũng đạt kim ngạch cao như: Trung Quốc đạt 662,66 triệu USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ, chiếm 9,3% trong tổng kim ngạch; Bỉ đạt 453,48 triệu USD, tăng 24%, chiếm 6,4%; Nhật Bản đạt 380,86 triệu USD, tăng 12%, chiếm 5,4%.
Nhìn chung, xuất khẩu giày dép sang phần lớn các thị trường trong 5 tháng đầu năm 2019 tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu sang Indonesia tăng mạnh nhất 60,1%, đạt 30,79 triệu USD; bên cạnh đó, xuất khẩu sang Ukraine cũng tăng mạnh 51,5%, đạt 4,59 triệu USD; Nga tăng 50,4%, đạt 61,62 triệu USD; U.A.E tăng 49%, đạt 56,71 triệu USD.
Ngược lại, xuất khẩu giày dép sang Achentina giảm mạnh nhất 37,2%, đạt 27,51 triệu USD; xuất sang Áo giảm 17,4%, đạt 9,33 triệu USD; Thổ Nhĩ Kỳ giảm 15,9%, đạt 13,2 triệu USD; Hungary giảm 12,1%, đạt 0,43 triệu USD.
Theo nhận định của Hiệp hội da giày – Túi xách Việt Nam (Lefaso), ngành da giày Việt Nam vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh tại các thị trường truyền thống. Đơn cử, tại thị trường Mỹ, việc dỡ bỏ những chính sách ưu đãi với giày dép xuất khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ đang tạo cơ hội cạnh tranh thuận lợi hơn cho giày dép xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực từ đầu năm 2019 đang giúp ngành da giày mở rộng thị trường khu vực châu Mỹ. Trong đó, CPTPP mang lại cho ngành da giày cơ hội tiếp cận những thị trường tiềm năng như Mexico và Canada.
Các chuyên gia cho rằng, các thị trường mới trong khối CPTPP không chỉ giúp ngành da giày tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia phát triển những dòng sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao hơn. Ở thị trường châu Âu, kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày đang duy trì ổn định và nếu Hiệp định thương mại Việt Nam - Châu Âu (EVFTA) kỳ vọng được thông qua vào năm nay sẽ là động lực thúc đẩy mức tăng trưởng của toàn ngành lên trên 15% so với năm 2018.
Hiệp hội Da giày Việt Nam cũng cho rằng, ngành da giày Việt Nam đang có nhiều lợi thế phát triển nhờ sự cạnh tranh về chi phí lao động. Hiện lương lao động tại Việt Nam vẫn ở mức thấp. Dự tính với mức lương lao động sẽ tăng khoảng 5% trong năm nay thì mức lương lao động nước ta vẫn cạnh tranh hơn so với các nước trong khu vực, đây cũng là một trong những động lực tạo ra sức hút về đơn hàng cho ngành da giày trong thời gian qua.
Trên thực tế, theo ghi nhận của các chuyên gia đã có sự chuyển dịch đơn hàng gia công giày dép từ Trung Quốc sang Việt Nam để tận dụng các lợi thế về nhân công cũng như đón đầu các cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do từ vài năm trước đây; trong đó đi đầu là các thương hiệu lớn như Nike, Adidas. Lefaso cho rằng, ngành da giày có thể tự tin sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 21,5 - 22 tỷ USD trong năm 2019.
Xuất khẩu giày dép 5 tháng đầu năm 2019
ĐVT: USD
Thị trường | T5/2019 | +/- so tháng T4/2019 (%)* | 5T/2019 | +/- so cùng kỳ năm trước (%)* |
Tổng kim ngạch XK | 1.718.616.740 | 18,05 | 7.105.691.691 | 13,88 |
Mỹ | 614.558.275 | 6,19 | 2.611.379.621 | 13,22 |
Trung Quốc | 143.775.278 | 37,26 | 662.660.232 | 24,21 |
Bỉ | 115.504.036 | 9,25 | 453.483.399 | 24,05 |
Đức | 100.155.058 | 22,48 | 404.029.380 | 5,83 |
Nhật Bản | 81.640.366 | 73,78 | 380.861.201 | 12,02 |
Hà Lan | 67.103.095 | 14,65 | 265.208.020 | 16,46 |
Anh | 67.766.974 | 25,15 | 263.641.865 | -0,89 |
Hàn Quốc | 52.178.081 | 17,72 | 239.974.377 | 18,67 |
Pháp | 58.245.518 | 43,48 | 219.993.909 | 7,27 |
Canada | 41.730.584 | 3,45 | 156.242.454 | 30,32 |
Mexico | 27.386.680 | -12,24 | 120.000.637 | 15,59 |
Italia | 33.625.242 | 35,08 | 119.940.714 | 1,24 |
Australia | 25.785.503 | 21,35 | 105.719.947 | 20,69 |
Tây Ban Nha | 28.094.919 | 57,15 | 90.942.661 | 0,79 |
Hồng Kông (TQ) | 18.329.496 | 63,78 | 72.393.313 | 9,13 |
Brazil | 14.856.424 | 9,21 | 64.903.099 | -0,42 |
Nga | 16.704.700 | 1,22 | 61.624.189 | 50,42 |
U.A.E | 14.612.699 | 29,02 | 56.708.797 | 49,06 |
Đài Loan (TQ) | 13.407.656 | 62,27 | 53.931.590 | 12,9 |
Chile | 14.132.697 | -11,19 | 52.054.495 | -2,75 |
Panama | 12.080.553 | 38,15 | 49.769.244 | 20,07 |
Ấn Độ | 13.124.917 | 33,67 | 48.984.467 | 24,98 |
Slovakia | 12.929.186 | 80,73 | 40.770.811 | 11,57 |
Nam Phi | 10.924.002 | 43,21 | 37.538.072 | -9,9 |
Singapore | 8.507.712 | 26,39 | 32.488.667 | 15,84 |
Indonesia | 5.082.185 | 3,8 | 30.787.120 | 60,13 |
Séc | 11.282.396 | 246,44 | 28.504.832 | 24,77 |
Thái Lan | 6.520.778 | 18,53 | 27.782.091 | 35,99 |
Pê Ru | 6.209.293 | -2,55 | 27.610.833 |
|
Philippines | 6.326.298 | 0,5 | 27.544.514 | 22,05 |
Achentina | 5.212.784 | -7,41 | 27.508.094 | -37,19 |
Malaysia | 6.174.562 | 41,72 | 26.939.090 | 21,84 |
Thụy Điển | 7.984.419 | 50,69 | 26.223.700 | 3 |
Israel | 5.446.446 | 63,99 | 18.101.856 | 17,8 |
Ba Lan | 3.216.097 | -28,08 | 16.110.686 | 31,78 |
New Zealand | 3.383.026 | 6,45 | 14.326.921 | 37,83 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 4.129.721 | 33,81 | 13.195.155 | -15,94 |
Hy Lạp | 3.091.418 | 0,06 | 12.950.245 | 0,98 |
Đan Mạch | 3.867.343 | 96,4 | 12.509.665 | -8,89 |
Thụy Sỹ | 3.446.467 | 21,36 | 11.328.150 | 17,52 |
Colombia | 2.794.303 | 49,49 | 9.471.281 |
|
Áo | 2.873.067 | 30,6 | 9.331.766 | -17,38 |
Phần Lan | 1.994.474 | -31,61 | 8.985.914 | 3,11 |
Na Uy | 1.559.742 | 63,69 | 7.493.410 | -11,63 |
Ukraine | 1.832.611 | 8,56 | 4.589.129 | 51,49 |
Luxembourg | 629.093 | 42,41 | 2.592.583 |
|
Bồ Đào Nha | 500.102 | -2,81 | 1.784.219 | 42,37 |
Hungary | 302.824 | 1,221,97 | 428.032 | -12,09 |
(*Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
5 tháng đầu năm 2016, lượng khí hóa lỏng nhập khẩu biến động, nếu như tháng đầu tiên của năm suy giảm, thì sang tháng 2 tăng và giảm liên tiếp trong hai tháng 3 và 4, nhưng sang tháng 5 lại nhập tăng trở lại.
Số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, tháng 5/2016, Việt Nam đã nhập khẩu 68,5 triệu USD, tăng 27% so với tháng liền kề trước đó, nâng kim ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm 5 tháng 2016 lên 362,1 triệu USD, giảm 17,03% so với cùng kỳ 2015.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, 5 tháng 2016 Việt Nam đã nhập khẩu 722,2 nghìn tấn giấy các loại, trị giá 577 triệu USD, tăng 8,55% về lượng và tăng 4,26% về trị giá so với cùng kỳ 2015.
Tháng 5/2016 cả nước đã nhập khẩu 50 triệu USD sản phẩm từ giấy, giảm 3,5% so với tháng liền kề trước đó – đây là tháng thứ hai liên tiếp kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này suy giảm.
Việt Nam nhập khẩu phân bón từ 18 quốc gia trên thế giới, trong đó chủ yếu nhập từ Trung Quốc, chiếm 47,5%.
Theo số liệu thống kê, trong 5 tháng đầu năm 2016, nhập khẩu ngô về Việt Nam đạt 2.992.586 tấn, trị giá 586.944.762 USD, tăng 3,34% về lượng và giảm 12,14% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Hiệp hội các nhà sản xuất xe Việt Nam (VAMA) cùng nhóm các nhà nhập khẩu chính hãng đồng loạt gửi kiến nghị xin Thủ tướng thay thông tư 20/2011-TT BTC về quy định bổ sung thủ tục nhập khẩu xe ôtô chở người loại từ 9 chỗ ngồi trở xuống trên bằng một nghị định tương tự.
6 tháng đầu năm, trong khi kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản và thủy sản đều tăng so với cùng kỳ năm trước thì xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lại theo chiều ngược lại, giảm nhẹ. Phóng viên Báo Hải quan đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam xung quanh vấn đề này.
Theo số liệu thống kê, nhập khẩu lúa mì về Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2016 đạt 1.557.093 tấn, trị giá 336.695.663 USD, tăng 64,78% về lượng và tăng 29,85% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, 5 tháng đầu năm 2016 cả nước chi tới 18,95 tỷ USD nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc, trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc 7,49 tỷ USD, tức là Việt Nam đã nhập siêu từ Trung Quốc tới 11,46 tỷ USD.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự