Nhập khẩu khí hóa lỏng tháng 5/2018 đã tăng trở lại sau khi giảm 25,1% trong tháng 4/2018. Giá khí tại thị trường nội địa cũng điều chỉnh tăng kể từ ngày 1/6.

Đến hết tháng 4/2018, xuất khẩu cả nước tiếp tục giữ được mức tăng khá cao 19,2% tương ứng tăng 11,89 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Theo Tổng cục Hải quan, sau kỷ lục xuất khẩu đạt được ở tháng trước, xuất khẩu trong tháng 4/2018 đã giảm khá mạnh (13,1%), đạt trị giá 18,37 tỷ USD. Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tháng 4/2018 có 36/46 nhóm hàng giảm so với tháng trước. Trong đó, những nhóm hàng xuất khẩu lớn như điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; hàng dệt may… đều giảm mạnh so với tháng trước.
Tính từ đầu năm đến hết tháng 4/2018, xuất khẩu cả nước tiếp tục giữ được mức tăng khá cao 19,2% tương ứng tăng 11,89 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu 4 tháng năm 2018 có 17/46 nhóm hàng có trị giá xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD của Việt Nam trong 4 tháng năm 2018 đều tăng so với cùng thời gian năm trước, các nhóm hàng tăng mạnh như điện thoại các loại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; sắt thép các loại; gạo…
Điện thoại các loại và linh kiện: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 3,48 tỷ USD, giảm 33,9% so với tháng trước. Tính từ đầu năm đến hết tháng 4/2018, trị giá xuất khẩu của nhóm hàng này đạt 16,08 tỷ USD, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó xuất khẩu nhóm hàng này sang thị trường Liên minh châu Âu (EU 28 nước) đạt 4,56 tỷ USD, tăng 28% so với cùng thời gian năm trước. Xuất khẩu nhóm mặt hàng này sang thị trường Trung Quốc tăng 5,2 lần so với cùng kỳ năm trước, đạt trị giá 1,79 tỷ USD; sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,71 tỷ USD, tăng 23,5%.
Máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện: kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện trong tháng 4 đạt 2,15 tỷ USD, giảm 4,5% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng đầu năm đạt 8,48 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 4 tháng từ đầu năm 2018, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc dẫn đầu với trị giá đạt 2,35 tỷ USD, tăng 28,4%; xuất khẩu sang EU đạt trị giá 1,58 tỷ USD, tăng 12%; sang Hàn Quốc đạt trị giá 884 triệu USD, tăng 53,9% so với cùng kỳ năm trước.
Hàng dệt may: xuất khẩu hàng dệt may trong tháng đạt 2,12 tỷ USD, giảm 8,7% so với tháng trước, nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng/2018 đạt 8,53 tỷ USD, tăng 14,5%, tương ứng tăng 1,08 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước.
Trong 4 tháng tính từ đầu năm 2018, Hoa Kỳ vẫn là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ Việt Nam với trị giá đạt 4,06 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, và chiếm 47,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước; tiếp theo là thị trường Nhật Bản đã tiêu thụ 1,12 tỷ USD, tăng 19,2%; thị trường EU tiêu thụ 1,11 tỷ USD, tăng 19,2%.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 4/2018 đạt 1,36 tỷ USD, giảm 8,4% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng từ đầu năm 2018 đạt 5,03 tỷ USD, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong 4 tháng từ đầu năm 2018 chủ yếu gồm: Hoa Kỳ với 842 triệu USD, tăng 3,6%; sang EU đạt trị giá 724 triệu USD, tăng 47,3%; Ấn Độ với 710 triệu USD, tăng gần 7 lần so với cùng kỳ năm 2017.
Giày dép các loại: xuất khẩu giầy dép các loại trong tháng 4/2018 đạt 1,26 tỷ USD, tăng 5,5% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu giày dép của cả nước trong 4 tháng từ đầu năm 2018 đạt 4,7 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu nhóm hàng này sang các thị trường Hoa Kỳ đạt trị giá 1,76 tỷ USD, tăng 16,4%; sang EU đạt trị giá 1,34 tỷ USD, giảm 1,1%; sang thị trường Trung Quốc đạt trị giá 422 triệu USD, tăng 36,8% so với cùng kỳ năm trước.
Gỗ và sản phẩm gỗ: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 4/2018 đạt kim ngạch 693 triệu USD, giảm 4,4% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng từ đầu năm 2018 đạt 2,64 tỷ USD, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước.
Gỗ và sản phẩm gỗ 4 tháng từ đầu năm 2018 được xuất khẩu chủ yếu đến các thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch 1,05 tỷ USD, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước; sang Trung Quốc với 367 triệu USD, tăng 3%; sang Nhật Bản với 351 triệu USD, tăng 2,2%; …
Hàng thủy sản: trị giá xuất khẩu trong tháng là 684 triệu USD, giảm 2,6% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng đầu năm nay đạt 2,45 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, xuất khẩu sang EU(28 nước) đạt trị giá 434 triệu USD, tăng 25%, xuất sang Hoa Kỳ đạt 378 triệu USD, tăng 5,7%; sang Nhật Bản đạt 376 triệu USD, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước.
Phương tiện vận tải và phụ tùng: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 627 triệu USD, giảm 13,1% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 4 tháng đầu năm đạt 2,65 tỷ USD, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường nhập khẩu phương tiện vận tải và phụ tùng từ Việt Nam trong 4 tháng đầu năm gồm: Nhật Bản với trị giá đạt 756 triệu USD, tăng 14,5%; sang Hoa Kỳ đạt 359 triệu USD, tăng 13,8%; sang Singapore đạt trị giá 154 triệu USD, tăng 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Sắt thép các loại: lượng xuất khẩu sắt thép các loại trong tháng đạt 482 nghìn tấn, trị giá gần 370 triệu USD, giảm 7,2% về lượng và giảm 5,2% về trị giá. Với kết quả xuất khẩu của tháng 4 làm cholượng xuất khẩu mặt hàng này trong 4 tháng/2018 đạt 1,91 triệu tấn, trị giá 1,41 tỷ USD, tăng 43,6% về lượng và tăng 61,7% về trị giá.
Sắt thép các loại 4 tháng đầu năm chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường Campuchia với 374 nghìn tấn, trị giá đạt 238 triệu USD, tăng 43,8% về lượng và 66,6% về trị giá; sang Hoa Kỳ với 290 nghìn tấn, trị giá 244 triệu USD, tăng 115% về lượng và 123,7% về trị giá; sang Indonexia đạt gần 265 nghìn tấn, trị giá đạt 208 triệu USD, tăng 33% về lượng và tăng 43,9% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Cà phê: lượng xuất khẩu cà phê trong tháng 4 đạt gần 156 nghìn tấn, trị giá đạt 298 triệu USD, giảm 22,2% về lượng và giảm 23,1% về trị giá. Với kết quả xuất khẩu của tháng 4 làm cho lượng xuất khẩu mặt hàng này trong 4 tháng/2018 đạt 685 nghìn tấn với trị giá đạt gần 1,33 tỷ USD, tăng 17% về lượng và giảm 0,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm chủ yếu sang các thị trường: EU (28 nước) với hơn 282 nghìn tấn, trị giá đạt hơn 528 triệu USD, tăng 1,7% về lượng nhưng giảm 14% về trị giá; sang Hoa Kỳ với gần 77 nghìn tấn, trị giá hơn 147 triệu USD, giảm 15,2% về lượng và 28,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Lượng xuất khẩu mặt hàng này sang Indonexia trong 4 tháng/2018 tăng đột biến so với cùng kỳ năm 2017 với 51 nghìn tấn và trị giá đạt 98 triệu USD, tăng gấp 11,9 lần về lượng và tăng 9,4 lần về trị giá.
Nguồn: Baohaiquan.vn
Nhập khẩu khí hóa lỏng tháng 5/2018 đã tăng trở lại sau khi giảm 25,1% trong tháng 4/2018. Giá khí tại thị trường nội địa cũng điều chỉnh tăng kể từ ngày 1/6.
Xuất khẩu giấy và sản phẩm từ giấy của Việt Nam tháng 5/2018 đã lấy lại đà tăng trưởng. Đặc biệt trong 5 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu sang Trung Quốc tăng mạnh gấp 11,5 lần so với cùng kỳ 2017.
5 tháng đầu năm 2018 nhập khẩu cao su của Việt Nam tăng về lượng nhưng kim ngạch và giá nhập bình quân giảm so với cùng kỳ năm ngoái.
Tháng 5/2018 nhập khẩu rau quả từ Brazil tăng 269,7%, Australia tăng 175%, từ NewZealnad tăng 102,6% so với tháng trước đó.
Mặc dù kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng dược phẩm từ hai thị trường Canada và Singapore chỉ đạt 7,3 và 3,1 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ tốc độ tăng mạnh gấp 2 lần mỗi thị trường so với cùng kỳ.
-5 tháng đầu năm 2018, cả nước xuất khẩu 877.804 tấn cà phê, trị giá 1,7 tỷ USD, tăng 23,8% về lượng và tăng 5,7% về trị giá so với cùng kỳ.
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu thủy sản sang các thị trường trong 5 tháng đầu năm 2018 đạt 3,21 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó riêng tháng 5/2018 đạt 765,75 triệu USD, tăng 11,9% so với tháng 4/2018 và tăng 7,9% so với tháng 5/2017.
Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan, 5 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 373.221 tấn chất dẻo nguyên liệu, thu về 356,9 triệu USD, tăng 145,3% về lượng và tăng 93% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2017. Giá xuất khẩu đạt trung bình 956,3 USD/tấn, giảm 21%.
Xuất khẩu gạo sang Bangladesh tăng gấp 90,8 lần về lượng và gấp 61,6 lần về kim ngạch; sang Indonesia cũng tăng gấp 291 lần về lượng, gấp 269 lần về kim ngạch.
Ấn Độ là một trong những thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam, đạt kim ngạch tỷ đô trong 5 tháng đầu năm 2018.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự