5 tháng đầu năm 2019 kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước đạt 1,76 tỷ USD, tăng 5,9% so với 5 tháng đầu năm 2018.

Riêng trong tháng 6 lượng thép nhập về là 1,84 triệu tấn, trị giá 820 triệu USD, tăng 8,3% về lượng so với tháng 5 và tăng 23,7% so với cùng kỳ năm trước.
Hiện nay, Việt Nam vẫn nhập khẩu sắt thép nhiều nhất từ thị trường Trung Quốc, chiếm gần 60% tổng lượng thép nhập khẩu (với 5,6 triệu tấn, trị giá 2,1 tỷ USD). Tiếp đến là Nhật Bản chiếm 16% (với 1,47 triệu tấn, trị giá 591,6 triệu USD); Đài Loan (Trung Quốc) chiếm 9,5% (với 965.935 tấn, trị giá 363,7 triệu USD); Hàn Quốc chiếm 9,6% (với 877.590 tấn, trị giá 443,8 triệu USD).
Hiện Trung Quốc vẫn tiếp tục chính sách đẩy mạnh xuất khẩu thép ra nước ngoài, do nhu cầu tiêu thụ nội địa suy giảm. Vì vậy, ngành công nghiệp thép các nước đối mặt với nguy cơ sản phẩm thép Trung Quốc xuất khẩu ồ ạt, trong đó có Việt Nam.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam - VSA, thời gian qua, các sản phẩm thép và phôi thép nhập khẩu tăng đột biến, đe dọa nghiêm trọng cho ngành sản xuất thép trong nước, là do các doanh nghiệp đang nghe ngóng thông tin về việc Nhà nước có thể sẽ áp dụng biện pháp tự vệ thương mại đối với một số mặt hàng phôi thép, thép dài và tôn mạ. Do đó, các doanh nghiệp nhập khẩu dự trữ hàng hóa để tranh thủ đầu cơ khi cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với các mặt hàng thép nhập khẩu.
Theo dự báo của VSA, với tình hình dư thừa nguồn cung từ phía Trung Quốc, dự kiến thép giá rẻ từ nước này sẽ tiếp tục tràn vào Việt Nam vào cuối năm, khi bước vào mùa xây dựng. Sức tiêu thụ của thị trường trong nước là có giới hạn, nếu Việt Nam không có các biện pháp tự vệ, phòng vệ, thép Trung Quốc giá rẻ sẽ khiến doanh nghiệp thép trong nước tiếp tục gặp khó khăn.
Số liệu thống kê sơ bộ của TCHQ về nhập khẩu sắt thép 6 tháng đầu năm 2016
Thị trường | 6T/2016
| +/- (%) 6T/2016 so với cùng kỳ | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng
| Trị giá | |
Tổng cộng | 9.660.324 | 3.808.984.033 | +39,98 | -0,26 |
Trung Quốc | 5.629.622 | 2.101.489.752 | +38,24 | -0,25 |
Nhật Bản | 1.466.151 | 591.583.845 | +22,14 | -7,37 |
Hàn Quốc | 877.590 | 443.804.342 | +4,69 | -20,15 |
Đài Loan | 965.935 | 363.729.687 | +69,92 | +13,79 |
Nga | 442.365 | 127.262.445 | +21616,49 | +2833,75 |
Ấn Độ | 38.148 | 29.528.989 | -34,44 | -30,24 |
Thái Lan | 31.823 | 27.276.410 | +35,81 | +12,25 |
Malaysia | 28.519 | 24.673.012 | +47,47 | +19,65 |
Australia | 66.356 | 21.882.635 | +5,26 | -10,33 |
Indonesia | 23.208 | 10.105.221 | +36,74 | -59,89 |
Hoa Kỳ | 4.967 | 5.775.023 | +9,07 | -22,95 |
Đức | 4.725 | 4.963.751 | +8,82 | -1,68 |
Phần Lan | 2.189 | 4.652.555 | +75,12 | +22,19 |
Braxin | 15.538 | 4.460.463 | +7406,28 | +1602,35 |
Bỉ | 5.179 | 4.386.548 | +43,98 | +105,13 |
Thuỵ Điển | 1.220 | 4.130.341 | +14,13 | +10,09 |
Singapore | 1.538 | 2.828.387 | -36,58 | -30,18 |
Nam Phi | 2.133 | 2.333.923 | -10,79 | -24,17 |
Ả Rập Xê Út | 6.022 | 2.316.890 | * | * |
Pháp | 2.008 | 2.226.673 | +85,07 | +10,00 |
Italia | 2.190 | 2.071.445 | -33,19 | -56,85 |
Áo | 206 | 2.020.990 | -84,45 | -57,43 |
Hà Lan | 2.284 | 1.758.754 | +62,68 | -9,70 |
Ba Lan | 718 | 1.680.576 | +170,94 | +200,74 |
Tây Ban Nha | 1.505 | 1.506.444 | -27,29 | -22,27 |
NewZealand | 4.542 | 1.287.631 | +68,16 | +20,64 |
Philippines | 840 | 821.148 | +168,37 | +90,60 |
Hồng Kông | 1.053 | 775.662 | +25,51 | -64,61 |
Anh | 453 | 631.207 | -13,05 | -40,00 |
Mexico | 850 | 623.733 | +74,90 | +135,34 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 313 | 249.696 | -66,05 | -71,72 |
Đan Mạch | 71 | 188.906 | +86,84 | +126,65 |
Canada | 283 | 155.500 | -27,25 | -13,78 |
Ucraina | 71 | 42.879 | -80,33 | -82,11 |
Theo Vinanet
5 tháng đầu năm 2019 kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước đạt 1,76 tỷ USD, tăng 5,9% so với 5 tháng đầu năm 2018.
Sau khi sụt giảm ở tháng 4/2019, sang tháng 5/2019 xuất khẩu cao su đã tăng trở lại cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 2,7%; 3,1% đạt 77,4 nghìn tấn, trị giá 111,7 triệu USD.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong 5 tháng đầu năm 2019 cả nước xuất khẩu 1,06 triệu tấn sắn và các sản phẩm từ sắn, giảm 19% so với cùng kỳ năm trước; thu về 409,02 triệu USD, giảm 12,6%; giá xuất khẩu trung bình đạt 385 USD/tấn, tăng 7,9%.
Kim ngạch xuất khẩu gỗ, sản phẩm gỗ 5 tháng đầu năm 2019 đạt gần 4,02 tỷ USD, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm 2018.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hy Lạp trong 5 tháng đầu năm 2019 đạt 111,84 triệu USD, tăng 14,12% so với cùng kỳ năm 2018.
Về kinh tế, trao đổi thương mại giữa hai nước tăng vượt bậc, gấp 3 lần trong vòng 10 năm qua (từ 1,5 tỷ USD năm 2009 lên hơn 4,6 tỷ USD năm 2018). Việt Nam đang là đối tác thương mại lớn nhất của Italy tại ASEAN và ngược lại, Italy là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam trong EU.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, tháng 5/2019 cả nước đã nhập khẩu 330,36 nghìn tấn phân bón các loại, trị giá 95,96 triệu USD, giảm 10% về lượng và giảm 12,4% về trị giá so với tháng 4/2019.
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu giày dép 5 tháng đầu năm 2019 đạt 7,11 tỷ USD tăng 13,9% so với 5 tháng đầu năm 2018; trong đó riêng tháng 5/2019 đạt 1,71 tỷ USD, tăng 18,1% so với tháng 4/2019 và tăng 11,9% so với tháng 5/2018.
Việt Nam và Liên bang Nga đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2001 và nâng lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012. Liên bang Nga chiếm hơn 90% trong tổng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và EAEU. Các mặt hàng điện tử, dệt may, da giày, thủy sản, cà phê... của Việt Nam ngày càng được người tiêu dùng Nga quan tâm sử dụng.
Tình từ đầu năm đến hết tháng 5/2019, Việt Nam đã nhập khẩu từ thị trường Malaysia trên 3 tỷ USD, trong đó nhóm hàng phương tiện vận tải và phụ tùng tăng đột biến, gấp gần 30lần so với cùng kỳ năm trước.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự