Tính riêng tháng 6/2016, nhập khẩu cao su đạt 35,4 nghìn tấn, trị giá 57 triệu USD, giảm 0,6% về lượng, nhưng tăng 1,5% về trị giá so với cùng kỳ 2015.

Xuất khẩu sang Hàn Quốc cũng tăng 26% so cùng kỳ, đạt 44,6 triệu USD, chiếm 3,9% tổng lượng xuất khẩu, đứng thứ hai sau thị trường Trung Quốc. Tiếp đến Hoa Kỳ, với 42,4 triệu USD, tăng 25,7% và chiếm 3,7% tổng lượng xuất khẩu.
Hà Lan mặc dù đứng thứ 5 về kim ngạch nhưng có tốc độ tăng khá mạnh 48,6%, đạt 28 triệu USD. Bên cạnh đó, thị trường Úc cũng khá tiềm năng khi xuất khẩu tăng gần 22% so cùng kỳ. Trong Top 10 thị trường lớn nhất tiêu thụ rau quả của Việt Nam, chỉ có Nhật Bản giảm nhẹ 4,7% về kim ngạch.
Các chuyên gia cho rằng, xuất khẩu rau quả năm 2016 có nhiều triển vọng hơn so với năm 2015, vì nhiều thị trường đã mở cửa với rau quả Việt Nam và nhiều thị trường đang tiếp tục được đàm phán và dự kiến sẽ mở cửa trong thời gian tới.
Trong tháng 6, lô hàng thanh long đầu tiên của Việt Nam đã được xuất khẩu trở lại vào thị trường Đài Loan sau 5 năm vắng bóng (Năm 2008, Đài Loan dừng nhập khẩu thanh long Việt Nam, với lý do có loài ruồi đục quả ổi ở Việt Nam có thể đi theo thanh long nhập khẩu vào nước bạn). Dự kiến xuất khẩu thanh long sang Đài Loan sẽ khó đạt được 14.000 - 16.000 tấn/năm như những năm trước, nhưng đây cũng là tín hiệu mừng đối với trái thanh long Việt.
Đối với thị trường Hoa Kỳ, sau thanh long, chôm chôm, vải và nhãn, thì trái vú sữa tươi là loại quả thứ 5 của Việt Nam sẽ chính thức được phép nhập khẩu vào thị trường này dự kiến từ quý IV năm nay. Dự kiến, xuất khẩu trái cây năm 2016 sẽ vượt con số 1,8 tỷ USD năm 2015.
Khi hội nhập sâu, đặc biệt là khi tham gia TPP, lộ trình thuế suất giảm dần cũng đồng nghĩa với việc các rào cản kỹ thuật như điều kiện kiểm dịch, an toàn thực phẩm sẽ tăng lên. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất trong XK trái cây nói riêng, XK các mặt hàng nông sản nói chung. Hồ sơ một loại trái cây để được một quốc gia chấp nhận nhanh thì mất 1 năm, còn trung bình khoảng 3-4 năm, thậm chí lâu hơn có thể mất tới cả 10 năm.
Nhiều nước NK đang đưa ra yêu cầu với trái cây tươi của Việt Nam là phải đảm bảo không dịch bệnh, không có thuốc bảo vệ thực vật theo đúng quy định. Về vấn đề kiểm soát dịch bệnh, yêu cầu trước khi XK trái cây phải được xử lý bằng hơi nước hoặc chiếu xạ. Ngoài nỗ lực để mở cửa thị trường, vượt qua rào cản về mặt kỹ thuật, một số chuyên gia cho rằng, muốn XK trái cây tận dụng tốt cơ hội trong hội nhập sâu, điều quan trọng là cần thu hút được đông đảo DN tham gia sản xuất, XK. Hiện nay, số lượng DN XK trái cây tươi khá khiêm tốn. Một trong những lý do khiến DN chưa mặn mà là bởi rủi ro cao, các loại chi phí lớn.
Số liệu thống kê sơ bộ của TCHQ về XK rau quả 6 tháng đầu năm 2016
ĐVT: USD
Thị trường |
6T/2016 |
6T/2015 | +/-(%) 6T/2016 so với cùng kỳ |
Tổng kim ngạch | 1.155.964.663 | 880.932.238 | +31,22 |
Trung Quốc | 803.808.467 | 252.581.947 | +218,24 |
Hàn Quốc | 44.633.582 | 35.430.452 | +25,98 |
Hoa Kỳ | 42.413.252 | 27.249.594 | +55,65 |
Nhật Bản | 35.152.202 | 36.889.889 | -4,71 |
Hà Lan | 28.051.689 | 18.874.826 | +48,62 |
Malaysia | 25.180.905 | 18.918.633 | +33,10 |
Thái Lan | 21.086.646 | 17.289.193 | +21,96 |
Đài Loan | 17.614.387 | 16.521.423 | +6,62 |
Singapore | 13.924.661 | 12.599.056 | +10,52 |
U.A.E | 10.651.728 | 6.212.446 | +71,46 |
Nga | 10.475.866 | 13.322.394 | -21,37 |
Australia | 10.354.735 | 8.493.384 | +21,92 |
Canada | 8.040.805 | 8.759.845 | -8,21 |
Indonesia | 6.481.400 | 5.102.275 | +27,03 |
Pháp | 6.466.309 | 4.781.137 | +35,25 |
Anh | 5.674.366 | 3.190.959 | +77,83 |
Đức | 5.585.359 | 7.274.553 | -23,22 |
Hồng Kông | 4.903.884 | 11.725.675 | -58,18 |
Lào | 2.618.233 | 3.588.191 | -27,03 |
Italia | 2.031.483 | 1.402.826 | +44,81 |
Campuchia | 1.555.331 | 1.018.094 | +52,77 |
Cô Oét | 1.105.973 | 2.429.184 | -54,47 |
Ucraina | 341.644 | 436.773 | -21,78 |
Tính riêng tháng 6/2016, nhập khẩu cao su đạt 35,4 nghìn tấn, trị giá 57 triệu USD, giảm 0,6% về lượng, nhưng tăng 1,5% về trị giá so với cùng kỳ 2015.
Trong số những thị trường Việt Nam xuất khẩu hàng mây, tre, cói thảm thì Hoa Kỳ là thị trường chủ lực, chiếm 23,3% tổng kim ngạch.
Nếu như hai tháng đầu năm xuất khẩu than đá suy giảm cả lượng và trị giá thì ba tháng liên tiếp sau đó lại tăng trưởng khá mạnh, tăng mạnh nhất là vào tháng 3 với mức tăng 827,4% về lượng và tăng 321,7% về trị giá so với tháng 2.
Giày dép là nhóm hàng đứng thứ 4 về kim ngạch xuất khẩu của cả nước (sau nhóm hàng điện thoại, dệt may và máy vi tính). Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu giày dép của Việt Nam trong tháng 6/2016 đạt 1,23 tỷ USD, giảm 1,4% so với tháng 5/2016; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này sang các thị trường trong 2 quí đầu năm 2016 lên 6,27 tỷ USD, tăng trưởng 7,2% so với cùng kỳ năm 2015.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu thuỷ sản của cả nước 6 tháng đầu năm 2016 đạt 3,08 tỷ USD, tăng 2,67% so với cùng kỳ năm 2015.
Số liệu từ TCHQ Việt Nam cho thấy, nửa đầu năm nay, nhập khẩu đậu tương của cả nước suy giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ 2015, giảm lần lượt 11,5% và 23,7%, tương ứng với 764,4 nghìn tấn, trị giá 308,8 triệu USD.
Gỗ là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong năm 2015, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt 6,9 tỷ USD, đưa Việt Nam thành nước xuất khẩu đồ gỗ lớn thứ 4 trên thế giới, sau Trung Quốc, Đức và Ý.
Trung Quốc là thị trường chính Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất trong nửa đầu năm nay, chiếm 52% tổng kim ngạch, đạt 2,6 tỷ USD, tăng 3,99% so với cùng kỳ.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm 2016 lượng thép nhập khẩu về Việt Nam là 9,66 triệu tấn , trị giá 3,8 tỷ USD (tăng 39,98% về lượng nhưng giảm 0,26% về trị giá). Lượng thép nhập khẩu 6 tháng đã gần bằng 2/3 tổng lượng thép nhập khẩu trong cả năm 2015 (là 15,098 triệu tấn).
Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu nông sản, được thị trường nước ngoài đánh giá cao nhưng 90% nông sản xuất khẩu dưới dạng thô nên giá trị thấp.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự