Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 3 quý đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 91.549 tấn chè các loại, thu về 151,42 triệu USD, giảm 10,9% về lượng và giảm 7,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo thống kê sơ sộ của Tổng cục Hải quan, sản phẩm sắt thép nhập khẩu về Việt Nam 9 tháng đầu năm 2018 tăng 19,9% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,64 tỷ USD. Riêng tháng 9/2018 giảm 6,2% so với tháng 8/2018 nhưng tăng 21,5% so với tháng 9/2017.
Việt Nam nhập khẩu sản phẩm sắt thép nhiều nhất từ thị trường Trung Quốc chiếm 42,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 1,12 tỷ USD, tăng 35,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Hàn Quốc là thị trường lớn thứ 2 cung cấp sản phẩm sắt thép cho Việt Nam đạt 488,71 triệu USD, chiếm 18,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng nhẹ 0,3% so với cùng kỳ. Đứng thứ 3 là thị trường Nhật Bản chiếm 16,2%, đạt 427,99 triệu USD, tăng 18,9%.
Sản phẩm sắt thép nhập khẩu thị trường Đông Nam Á nói chung chiếm 8,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 223,08 triệu USD, tăng 9,2%. Sản phẩm sắt thép nhập khẩu thị trường EU chỉ chiếm 5,4%, đạt 141,22 triệu USD, tăng 20,4%.
Trong 9 tháng đầu năm nay, chỉ có 4 thị trường nhập khẩu sản phẩm sắt thép bị sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, đó là: Philipines giảm 77,9%, đạt 2,87 triệu USD; Nga giảm 25,9%, đạt 2,81 triệu USD; Tây Ban Nha giảm 3,6%, đạt 5,2 triệu USD và Pháp giảm 2%, đạt 11,68 triệu USD.
Trong số các thị trường tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, đáng chú ý nhập khẩu từ thị trường Áo, mặc dù chỉ đạt 11,82 triệu USD nhưng so với cùng kỳ thì tăng rất mạnh 310%. Bên cạnh đó, nhập khẩu còn tăng mạnh ở các thị trường như: Ukraine tăng 188%, đạt 3,97 triệu USD; Bỉ tăng 108%, đạt 4,07 triệu USD; Đan Mạch tăng 104%, đạt 6,56 triệu USD; Thụy Điển tăng 93%, đạt 3,99 triệu USD; Ba Lan tăng 84,8%, đạt 2,94 triệu USD.
Nhập khẩu sản phẩm sắt thép 9 tháng đầu năm 2018
Thị trường | T9/2018 | % tăng giảm so với T8/2018* | 9T/2018 | % tăng giảm so với cùng kỳ* |
Tổng kim ngạch NK | 311.923.645 | -6,24 | 2.638.445.082 | 19,88 |
Trung Quốc | 139.400.930 | -5,93 | 1.116.464.303 | 35,09 |
Hàn Quốc | 60.332.095 | 5,31 | 488.713.880 | 0,34 |
Nhật Bản | 46.022.210 | -2,28 | 427.986.896 | 18,89 |
Thái Lan | 15.884.663 | -6,55 | 141.664.206 | 19,85 |
Đài Loan (TQ) | 11.190.787 | -41,67 | 110.887.020 | 12,19 |
Đức | 4.136.299 | -25,43 | 47.438.149 | 6,66 |
Mỹ | 4.079.002 | -30,13 | 39.930.725 | 3,54 |
Malaysia | 5.101.395 | -10,54 | 36.366.264 | 7,43 |
Indonesia | 3.957.086 | 47,07 | 25.393.658 | 11,25 |
Italia | 2.712.440 | 15,97 | 22.556.924 | 9,85 |
Ấn Độ | 2.607.362 | 42,67 | 21.350.980 | 28,3 |
Singapore | 2.469.742 | 41,65 | 16.785.178 | 1,72 |
Hà Lan | 841.245 | -17,24 | 15.284.497 | 1,97 |
Áo | 1.864.187 | -10,38 | 11.816.539 | 310,34 |
Pháp | 1.123.221 | 51,19 | 11.677.730 | -2,05 |
Anh | 686.285 | -36,46 | 9.689.036 | 16,47 |
Thụy Sỹ | 704.286 | -19,63 | 8.479.033 | 3,26 |
Na Uy | 154.369 | -89,2 | 6.565.721 | 29,82 |
Đan Mạch | 210.074 | -85,51 | 6.556.814 | 104,02 |
Hồng Kông (TQ) | 631.873 | -9,9 | 5.607.202 | 15,93 |
Tây Ban Nha | 519.547 | -21,47 | 5.195.157 | -3,58 |
Bỉ | 362.024 | 24,96 | 4.071.493 | 108,07 |
Thụy Điển | 495.019 | -49,52 | 3.990.562 | 93,05 |
Ukraine | 767.667 | -53,82 | 3.965.437 | 187,97 |
Ba Lan | 390.550 | 70,07 | 2.938.923 | 84,84 |
Philippines | 305.392 | -27,49 | 2.872.268 | -77,87 |
Nga | 316.170 |
| 2.810.816 | -25,86 |
Australia | 323.465 | 65,87 | 2.421.153 | 19,32 |
Canada | 519.232 | 111,77 | 1.845.985 | 0,17 |
(*Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 3 quý đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 91.549 tấn chè các loại, thu về 151,42 triệu USD, giảm 10,9% về lượng và giảm 7,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
9 tháng đầu năm, lượng cà phê xuất khẩu vẫn tăng mạnh 31,2% so với cùng kỳ, đạt 1,45 triệu tấn và kim ngạch cũng tăng 9%, đạt 2,75 tỷ USD.
Tháng 9/2018, sản xuất sữa tăng ở phân khúc sữa tươi nhưng giảm ở sữa bột so với tháng trước đó. Về nhập khẩu kim ngạch giảm so với cùng kỳ, xuống còn 54,6 triệu USD…
9 tháng đầu năm 2018, lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu vào Việt Nam tăng 19,3% về lượng và tăng 47,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 9/2018, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên phụ liệu dược phẩm chỉ có 26,7 triệu USD, giảm 20,5% so với tháng 8/2018 – đây là tháng giảm thứ hai liên tiếp.
Theo thống kê sơ sộ của Tổng cục Hải quan, sản phẩm sắt thép nhập khẩu về Việt Nam 9 tháng đầu năm 2018 tăng 19,9% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,64 tỷ USD. Riêng tháng 9/2018 giảm 6,2% so với tháng 8/2018 nhưng tăng 21,5% so với tháng 9/2017.
Xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ đứng đầu về kim ngạch, đạt 1,14 tỷ USD, chiếm 17,9% trong tổng kim ngạch.
Với kim ngạch thu về trên 13,4 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2018, tăng 25,96% so với cùng kỳ năm 2017 – Hàn Quốc trở thành thị trường có tốc độ tăng mạnh đứng thứ ba chỉ sau Ấn Độ và Trung Quốc.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 9/2018 đạt 386 triệu USD, tăng 27,93% so với tháng trước đó và tăng 51,71% so với cùng tháng năm ngoái.
Xăng dầu nhập khẩu về Việt Nam 9 tháng đầu năm 2018 đạt 9,33 triệu tấn, trị giá 6,26 tỷ USD, tuy giảm 1,8% về lượng nhưng tăng mạnh trên 24,9% về trị giá so với cùng kỳ.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự