Sau khi tăng trưởng hai tháng liên tiếp, sang đến tháng 5/2019 xuất khẩu phân bón đã suy giảm trở lại cả về lượng và trị giá, giảm lần lượt 4,0% và 4,5% tương ứng với 77,9 nghìn tấn, trị giá 25,58 triệu USD.

Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch nhập khẩu của 10 nhóm hàng nhập khẩu lớn nhất đạt 14,640 tỷ USD, chiếm 63,63% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước từ đầu năm đến ngày 29/2 là 23,008 tỷ USD.
Đứng đầu trong bảng xếp hạng là Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với kim ngạch nhập khẩu đạt 3,892 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tụt xuống 1 bậc và đứng ở vị trí thứ 2 là Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác với giá trị kim ngạch 3,709 tỷ USD, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm trước.
Điện thoại các loại và linh kiện vươn lên đứng thứ 3 với 1,510 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm trước.
Vải các loại tụt xuống 1 bậc và đứng ở vị trí thứ 4 với 1,308 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước.
Sắt thép các loại tiếp tục đứng ở vị trí thứ năm với giá trị kim ngạch 1,033 tỷ USD, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước.
Chất dẻo nguyên liệu đứng thứ sáu với giá trị kim ngạch 774,069 triệu USD, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước.
Hai vị trí tiếp theo thuộc về Nguyên phụ liệu dệt may da giày; Kim loại thường khác với giá trị kim ngạch lần lượt là 641,399 triệu USD và 640,819 triệu USD.
Đứng thứ chín là Sản phẩm từ chất dẻo với giá trị kim ngạch 593,959 triệu USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước.
Đứng ở vị trí cuối cùng là Xăng dầu các loại với giá trị kim ngạch đạt 535,362 triệu USD, giảm 33,1% so với cùng kỳ năm trước.
Như vậy, trong số 10 nhóm hàng nhập khẩu lớn nhất có Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; Điện thoại các loại và linh kiện; Vải các loại; Sắt thép các loại; Chất dẻo nguyên liệu; Nguyên phụ liệu dệt may da giày; Xăng dầu các loại là suy giảm so với cùng kỳ.
L.T
(Thời báo Ngân hàng)
Sau khi tăng trưởng hai tháng liên tiếp, sang đến tháng 5/2019 xuất khẩu phân bón đã suy giảm trở lại cả về lượng và trị giá, giảm lần lượt 4,0% và 4,5% tương ứng với 77,9 nghìn tấn, trị giá 25,58 triệu USD.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 5/2019 đạt 353 triệu USD, tăng 28,47% so với tháng trước đó và tăng 3,92% so với cùng tháng năm ngoái.
Việt Nam là đối tác thương mại hàng đầu của Brazil trong ASEAN; ngược lại, Brazil cũng là đối tác thương mại lớn nhất, quan trọng nhất của Việt Nam tại khu vực Nam Mỹ.
Tháng 4/2019, xuất khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước tăng cả lượng và trị giá so với tháng trước đó, cụ thể tăng 6,8% về lượng đạt 93,8 nghìn tấn, tăng 8,6% về trị giá đạt 111,14 triệu USD – đây là tháng tăng thứ hai liên tiếp.
Theo số liệu của Tổng Cục Hải quan, nhập khẩu hàng hóa từ Nhật Bản 4 tháng đầu năm 2019 đạt trên 5,8 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2018.
-Với vị trí và khoảng cách địa lý không xa, Trung Quốc là thị trường chính cung cấp thuốc trừ sâu và nguyên liệu cho Việt Nam trong 4 tháng đầu năm, chiếm 55,66% tỷ trọng, tăng so với cùng kỳ năm trước.
Sau khi sụt giảm kể từ đầu năm đến tháng 3/2019, nay sang tháng 4/2019 nhập khẩu phân bón của cả nước đã tăng trở lại cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 35,6% và 43,9%, đạt tương ứng 389,3 nghìn tấn, trị giá 109,6 triệu USD.
Mặc dù tỷ trọng từ hai thị trường Bỉ và Nhật Bản chỉ chiếm 0,4% và 3,6%, nhưng so với cùng kỳ kim ngạch nhập khẩu từ những thị trường lại tăng vượt trội, đạt lần lượt 97,49% và 59,26%.
Tuy là thị trường chỉ chiếm 0,2% tỷ trọng trong 4 tháng đầu năm 2019, nhưng tốc độ nhập khẩu sản phẩm giấy từ thị trường Singpaore tăng vượt trội 39,32% so với cùng kỳ 2018.
Hóa chất nhập khẩu nhiều nhất từ thị trường Trung Quốc, chiếm 30,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 517,8 triệu USD.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự