Nhiều tuần sau khi tổng thống Mỹ công bố áp thuế 25% với nhôm, thép nhập vào Mỹ, Trung Quốc công bố áp mức thuế tương tự với 128 mặt hàng của Mỹ.

Quý 1/2019 xuất khẩu nhóm hàng rau quả của cả nước đạt 948,87 triệu USD, giảm nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, hàng rau quả của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài trong tháng 3/2019 đạt 364,6 triệu USD, tăng 57,4% so với tháng 2/2019 và tăng 13,4% so với cùng tháng năm 2018.
Tính chung trong quý 1 năm 2019 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng rau quả của cả nước đạt 948,87 triệu USD, giảm nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 1,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại của cả nước.
Hàng rau quả của Việt Nam xuất khẩu sang rất nhiều thị trường trên thế giới; trong đó xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Trung Quốc, chiếm 71,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 680,05 triệu USD, giảm 6,4% so với quý 1 năm 2018. Riêng tháng 3/2019 xuất khẩu đạt 253,14 triệu USD, tăng 47,8% so với tháng 2/2019 và tăng 12,5% so với tháng 3/2018.
Ngoài thị trường chủ đạo Trung Quốc, rau quả còn xuất khẩu sang các nước Đông nam Á chiếm 3,6%, đạt 34,24 triệu USD, tăng 21,5%; sang EU chiếm 3,5%, đạt 33,63 triệu USD, tăng rất mạnh 125,9%; sang Mỹ 3,3%, đạt 31,75 triệu USD, tăng 9,7%; Hàn Quốc chiếm 3,3%, đạt 31,27 triệu USD, tăng 30,8%.
Xét về mức tăng trưởng xuất khẩu nhóm hàng này trong quý 1 năm nay so với cùng kỳ năm ngoái, thì thấy đa số các thị trường tăng kim ngạch; trong đó đáng chú ý một số thị trường tuy kim ngạch không cao nhưng so với cùng kỳ năm ngoái thì tăng rất mạnh như: Italia tăng 458,5%, đạt 3,43 triệu USD; Indonesia tăng 229,8%, đạt 0,82 triệu USD; Ukraine tăng 77,9%, đạt 0,37 triệu USD; Lào tăng 72,4%, đạt 4,49 triệu USD.
Tuy nhiên, xuất khẩu hàng rau quả sụt giảm mạnh ở các thị trường như: Malaysia giảm 42,1%, đạt 8,42 triệu USD; Nga giảm 34,9%, đạt 4,51 triệu USD; Thái Lan giảm 31,8%, đạt 12,36 triệu USD.
Xuất khẩu rau quả quý 1/2019
ĐVT: USD
Thị trường | T3/2019 | +/- so với tháng 2/2019 (%)* | Quý 1/2019 | +/- so với cùng kỳ (%)* |
Tổng kim ngạch XK | 364.599.426 | 57,37 | 948.871.239 | -2,19 |
Trung Quốc đại lục | 253.144.882 | 47,83 | 680.046.766 | -6,41 |
Mỹ | 12.281.125 | 76,95 | 31.745.397 | 9,66 |
Hàn Quốc | 12.614.153 | 77,81 | 31.269.605 | 30,75 |
Nhật Bản | 11.386.188 | 71,5 | 28.241.135 | -0,49 |
Hà Lan | 5.375.364 | 28,71 | 16.676.808 | 25,23 |
Thái Lan | 4.795.401 | 119,12 | 12.358.719 | -31,75 |
U.A.E | 4.050.617 | 75,7 | 10.496.270 | 2,91 |
Australia | 3.122.093 | 51,02 | 9.534.395 | 54,47 |
Malaysia | 2.926.565 | 22,62 | 8.418.014 | -42,11 |
Đài Loan (TQ) | 3.518.885 | 101,46 | 7.753.348 | 16,71 |
Singapore | 2.662.867 | 39,57 | 7.693.601 | -5,13 |
Pháp | 2.725.820 | 40,7 | 7.184.963 | 17,9 |
Hồng Kông (TQ) | 2.099.559 | 69,48 | 5.495.360 | 16,46 |
Ai Cập | 3.199.479 |
| 5.474.510 |
|
Canada | 1.990.944 | 55,51 | 5.092.481 | -7,6 |
Đức | 2.322.533 | 262,69 | 4.764.777 | 38,07 |
Nga | 2.133.445 | 156,03 | 4.511.723 | -34,88 |
Lào | 1.853.494 | 63,21 | 4.487.926 | 72,35 |
Saudi Arabia | 1.948.616 |
| 3.720.208 |
|
Italia | 984.073 | 46,18 | 3.426.292 | 458,51 |
Anh | 772.004 | 147,87 | 1.575.593 | 53,05 |
Thụy Sỹ | 500.105 |
| 1.321.371 |
|
Kuwait | 35.324 | -28,08 | 865.422 | 17,46 |
Indonesia | 655.077 | 780,89 | 819.834 | 229,75 |
Na Uy | 279.725 |
| 636.541 |
|
Campuchia | 162.323 | -5,99 | 463.305 | -26,56 |
Ukraine | 196.676 |
| 366.570 | 77,9 |
Senegal | 107.174 |
| 211.575 |
|
(Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Nhiều tuần sau khi tổng thống Mỹ công bố áp thuế 25% với nhôm, thép nhập vào Mỹ, Trung Quốc công bố áp mức thuế tương tự với 128 mặt hàng của Mỹ.
Trung Quốc đang mua đến 85% tổng lượng quặng và khoáng sản xuất khẩu của VN, nhưng giá bán cho thị trường này chỉ bằng 60% giá xuất khẩu bình quân.
Than đá và quặng khoáng sản là 2 nhóm hàng tăng trưởng mạnh nhất trong các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Than đá xuất nhiều nhất sang Nhật Bản, quặng khoáng sản xuất khẩu hầu hết sang thị trường Trung Quốc với giá rất rẻ, chỉ bằng hơn một nửa so với mức giá trung bình sang các thị trường khác.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, 11 tháng năm 2017, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 7,6 tỉ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm 2016
Là thủ phủ hoa của cả nước với diện tích lên đến gần 6.000 ha, sản lượng trên 2,4 tỷ cành/năm nhưng do gặp khó về giống, thương hiệu… mà phần lớn hoa do nông dân Đà Lạt sản xuất chỉ quanh quẩn tiêu thụ trong nước, nhiều lúc thừa ế phải đổ bỏ hàng loạt.
Trái ngược với những dự báo hồi đầu năm rằng xuất khẩu gạo trong năm 2017 sẽ gặp nhiều khó khăn, bấp bênh, thông tin từ Bộ Công Thương và các doanh nghiệp cho thấy, ngành gạo đã có một năm khá thành công về xuất khẩu, vượt xa kế hoạch đã đề ra trước đó.
Giữa tháng 12/2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam lần đầu tiên phá kỷ lục chạm ngưỡng 400 tỷ USD.
Theo báo cáo tháng 11 của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), trong năm 2018, thương mại gạo toàn cầu sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức 1% và đạt 42,3 triệu tấn.
Doanh nghiệp 2 bên được tận dụng mức thuế ưu đãi từ hiệp định thương mại tự do EVFTA trong xuất nhập khẩu cũng như thu hút nguồn lực đầu tư.
Mỹ luôn duy trì là thị trường nhập khẩu hàng đầu các mặt hàng thực phẩm, nông sản của Việt Nam như thuỷ sản, điều, cà phê…
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự