Xuất khẩu sản phẩm nhựa quý 1/2019 đạt 807,33 triệu USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2018.

Xuất khẩu phân bón 4 tháng 2016 giảm cả ề lượng và trị giá, giảm lần lượt 27,8% về lượng và 44,5% so với cùng kỳ năm 2015.
Tuy xuất khẩu phân bón giảm cả lượng và trị giá so với cùng kỳ, giảm lần lượt 27,84% và 44,53%, tương ứng với 182,4 nghìn tấn, trị giá 50,6 triệu USD, nhưng xuất khẩu trong tháng 4 lại có tốc độ tăng trưởng, tăng 40,6% về lượng và tăng 24,4% về trị giá so với tháng 3, đạt lần lượt 65,7 nghìn tấn, trị giá 16,4 triệu USD – đây là tháng tăng thứ hai kể từ đầu năm đến nay sau hai tháng giảm liên tiếp.
Tình hình xuất khẩu phân bón 4 tháng 2016
| Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | So sánh +/- (%) | |
Lượng | Trị giá | |||
Tháng 1 | 46.342 | 15.016.891 | -21,8 | -10,0 |
Tháng 2 | 23.117 | 5.954.284 | -50,1 | -60,3 |
Tháng 3 | 46.761 | 13.204.496 | +102,3 | +121,8 |
Tháng 4 | 65.741 | 16.423.716 | +40,6 | +24,4 |
(Nguồn số liệu: TCHQ)
Việt Nam xuất khẩu phân bón sang 8 quốc gia trên thế giới, trong đó chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Campuchia, chiếm 19,8% tổng lượng phân bón xuất khẩu, với 36,2 nghìn tấn, trị giá 11,5 triệu USD, giảm 36,83% về lượng và giảm 46,37% về trị giá so với cùng kỳ.
Thị trường lớn thứ hai sau Campuchia là Hàn Quốc, tuy nhiên tốc độ xuất khẩu sang thị trường này giảm cả lượng và trị giá, giảm lần lượt 38,34% và 53,9%, tương ứng với 34,2 nghìn tấn, trị giá 8,6 triệu USD, kế đến là thị trường Philippin tuy nhiên xuất khẩu phân bón đều giảm cả lượng và trị giá, giảm 18,2% và giảm 23,17%.
Như vậy, 4 tháng đầu năm nay xuất khẩu phân bón sang các thị trường chủ lực đều suy giảm cả về lượng và kim ngạch, duy nhất chỉ có xuất khẩu sang Lào là tăng cả lượng và trị giá, đạt 12,5 nghìn tấn, trị giá 3,1 triệu USD, tăng 93,28% về lượng và tăng 8,06% trị giá so với cùng kỳ.
Nhìn chung, xuất khẩu phân bón sang các thị trường đều với tốc độ tăng trưởng âm, giảm mạnh nhất là xuất sang thị trường Hàn Quốc.
Thống kê sơ bộ của TCHQ về thị trường xuất khẩu phân bón 4 tháng 2016
Thị trường | 4 tháng 2016 | 4 tháng 2015 | So sánh +/- (%) | |||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng cộng | 182.443 | 50.617.084 | 252.814 | 91.243.739 | -27,84 | -44,53 |
Cămpuchia | 36.291 | 11.576.529 | 57.447 | 21.585.905 | -36,83 | -46,37 |
Hàn Quốc | 34.211 | 8.635.221 | 55.485 | 18.731.648 | -38,34 | -53,90 |
Philipin | 30.752 | 10.059.500 | 37.596 | 13.093.864 | -18,20 | -23,17 |
Malaysia | 29.382 | 4.523.693 | 28.931 | 9.418.838 | 1,56 | -51,97 |
Lào | 12.509 | 3.136.380 | 6.472 | 2.902.390 | 93,28 | 8,06 |
Thái Lan | 5.741 | 1.623.822 | 10.360 | 3.199.300 | -44,58 | -49,24 |
Nhật Bản | 2.086 | 522.133 | 2.448 | 712.298 | -14,79 | -26,70 |
Đài Loan | 1.009 | 244.154 | 1.275 | 302.596 | -20,86 | -19,31 |
Theo Vinanet
Xuất khẩu sản phẩm nhựa quý 1/2019 đạt 807,33 triệu USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2018.
Quý 1/2019 xuất khẩu than đá của cả nước đạt 31.381 tấn, thu về 4,34 triệu USD, giảm mạnh 94,6% về lượng và giảm 94,2% về kim ngạch so với quý 1/2018.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu sau khi sụt giảm cả về lượng và kim ngạch trong tháng 2/2019, thì tháng 3/2019 tăng mạnh 110,5% về khối lượng và tăng 102,3% về kim ngạch so với tháng 2/2019, đạt 35.269 tấn, tương đương 89,45 triệu USD; so với tháng 3/2018 thì tăng 17,3% về lượng nhưng giảm 15,8% về kim ngạch.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sau khi sụt giảm mạnh trên 60% trong tháng 2/2019 thì sang tháng 3/2019 lại tăng rất mạnh 93,7% so với tháng liền kề trước đó, đạt 2,53 tỷ USD; so với cùng tháng năm 2018 cũng tăng 9,3%.
Trung Quốc – thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 4 tháng năm 2019, kim ngạch tăng so với cùng kỳ, trong đó nhóm hàng điện tử máy tính và linh kiện tăng gần 81%...
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, quý 1/2019 cả nước xuất khẩu gần 8,56 triệu tấn xi măng và clinker, thu về 364,57 triệu USD, tăng 0,6% về lượng và tăng 22,8% về kim ngạch so với quý 1/2018. Giá xuất khẩu tăng 22%, đạt trung bình 42,6 USD/tấn.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong tháng 3/2019 tăng mạnh trở lại gần 40% cả về lượng và kim ngạch sau khi giảm 38% cả về lượng và kim ngạch trong tháng trước đó.
Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ quý 1/2019 đạt gần 2,27 tỷ USD – đứng đầu về kim ngạch trong nhóm hàng xuất khẩu của ngành nông nghiệp, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó, riêng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 1,62 tỷ USD, chiếm 71,2%, tăng 19,3%.
Quý 1/2019 xuất khẩu nhóm hàng rau quả của cả nước đạt 948,87 triệu USD, giảm nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Mặc dù kết thúc quý 1/2019 thương mại giữa Việt Nam và Australia ở thế nhập siêu, nhưng ngược lại Australia cũng phải nhập từ Việt Nam với kim ngạch không nhỏ trên 800 triệu USD, giảm 13,34% so với quý 1/2018, trong đó hai nhóm hàng xi măng và gạo có tốc độ tăng vượt trội.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự