Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/3/2019, xuất khẩu hạt tiêu đạt 53.400 tấn, trị giá 144,72 triệu USD, tăng 27,9% về lượng, nhưng giảm 8,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.

Tuy không phải là thị trường xuất khẩu chè chủ lực của Việt Nam, nhưng 10 tháng năm 2018 tốc độ xuất khẩu chè sang thị trường Philippines tăng mạnh vượt trội về lượng.
Theo tính toán số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, tháng 10/2018 xuất khẩu chè của cả nước tăng cả lượng và trị giá so với tháng 9 , tăng lần lượt 15,7% và 24% tương ứng với 12,2 nghìn tấn, tị giá 23,1 triệu USD, nâng lượng chè xuất khẩu 10 tháng 2018 lên 103,74 nghìn tấn, trị giá 174,45 triệu USD, giảm 10,1% về lượng và giảm 6,0% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017. Giá xuất khẩu bình quân tăng 4,42% đạt 1681,48 USD/tấn.
Trong số thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam, Pakistan luôn là thị trường dẫn đầu về lượng xuất, chiếm gần 27,2% thị phần, đạt 28,25 nghìn tấn, trị giá 61,55 triệu USD, tăng 12,53% về lượng và 14,63% trị giá so với cùng kỳ. Tính riêng tháng 10/2018 đã xuất khẩu 4,33 nghìn tấn chè các loại sang Pakistan, đạt 8,82 triệu USD, tăng 36,29% về lượng và 34,26% trị giá so với tháng 9/2018,nếu so với tháng 10/2017 cũng tăng 25,04% về lượng và 17,07% trị giá.
Đứng thứ hai về lượng xuất là thị trường Đài Loan (TQ) đạt 15,75 nghìn tấn, trị giá 24,41 triệu USD, tăng 7,52% về lượng và 6,21% trị giá so với cùng kỳ. Kế đến là thị trường Nga đạt 12,1 nghìn tấn, trị giá 18,41 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ xuất sang thị trường này đều sụt giảm cả lượng và trị giá, giảm lần lượt 17,18% và 10,95%, mặc dù giá xuất bình quân tăng 7,52% đạt 1521,39 USD/tấn.
Tuy có vị trí và khoảng cách địa lý gần với Việt Nam, thuận tiện trong việc giao thương hàng hóa, nhưng xuất khẩu chè sang Trung Quốc lục địa chỉ đứng thứ tư sau Pakistan, Đài loan (TQ) và Nga, chiếm 8,12% thị phần đạt 8,43 nghìn tấn, trị giá 14,8 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ giảm 8,4% về lượng tăng 24,42% trị giá. Tính riêng tháng 10/2018 đã xuất sang thị trường này 643 nghìn tấn, trị giá 3,29 triệu USD, tăng 77,62% về lượng và gấp hơn 2,6 lần (tức tăng 160,29%) về trị giá so với tháng 9/2018, nếu so với tháng 10/2017 thì lượng giảm 35,38% nhưng trị giá lại tăng gấp 2,1 lần (tức tăng 105,87%), giá xuất bình quân cũng tăng mạnh gấp 3,2 lần (tức tăng 218,57%) đạt 5131,3 USD/tấn.
Ngoài những thị trường kể trên, chè của Việt Nam còn xuất sang các quốc gia khác như: Ấn Độ, Hoa Kỳ, Saudi Arabia, Ba Lan, Ukraine….
Đặc biệt, nếu như cùng thời kỳ này năm trước xuất khẩu chè sang thị trường UAE tăng đột biến thì 10 tháng đầu năm nay lại sụt giảm, giảm 55,04% về lượng và 53,97% trị giá tương ứng với 2,65 nghìn tấn; 4,1 triệu USD thay vào đó là xuất sang thị trường Philippines tăng mạnh, 49,85% về lượng và 58,94% trị giá tuy chỉ đạt 511 tấn, thu về 1,3 triệu USD.
Nhìn chung 10 tháng 2018, tốc độ xuất khẩu chè sang các thị trường đều suy giảm, chiếm 52,94% và ngược lại thị trường với lượng tăng trưởng chiếm 47%, trong đó xuất sang UAE giảm nhiều nhất, kế đến là Thổ Nhĩ Kỳ giảm 49,25% về lượng và 54,99% trị giá so với cùng kỳ, tương ứng với 271 tấn, trị giá 546,4 nghìn USD.
Thị trường xuất khẩu chè 10 tháng năm 2018
Thị trường | 10T/2018 | +/- so với cùng kỳ 2017 (%)* | ||
Lương (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Pakistan | 28.254 | 61.559.434 | 12,53 | 14,63 |
Đài Loan | 15.750 | 24.413.912 | 7,52 | 6,21 |
Nga | 12.106 | 18.417.973 | -17,18 | -10,95 |
Trung Quốc | 8.430 | 14.833.509 | -8,4 | 24,42 |
Indonesia | 7.455 | 7.474.980 | -9,11 | 0,63 |
Hoa Kỳ | 5.252 | 6.274.482 | -4,35 | 0,09 |
Malaysia | 3.351 | 2.595.166 | 19,98 | 20,36 |
UAE | 2.652 | 4.104.599 | -55,04 | -53,97 |
Saudi Arabia | 1.650 | 4.260.570 | 36,82 | 43,6 |
EU | 1.273 | 3.077.589 | -11,04 | 7,37 |
Ukraine | 1.165 | 1.908.067 | 7,18 | 17,45 |
Ba Lan | 958 | 1.468.985 | -15,07 | -21,49 |
Ấn Độ | 672 | 637.870 | -59 | -65,95 |
Philippines | 511 | 1.305.507 | 49,85 | 58,94 |
Đức | 315 | 1.608.604 | 3,96 | 61,61 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 271 | 546.421 | -49,25 | -54,99 |
Kuwait | 17 | 46.008 | 13,33 | 13,92 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
THeo Vinanet.vn
Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/3/2019, xuất khẩu hạt tiêu đạt 53.400 tấn, trị giá 144,72 triệu USD, tăng 27,9% về lượng, nhưng giảm 8,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Những tháng đầu năm 2019, Việt Nam tăng mạnh nhập khẩu dược phẩm từ thị trường Nga, tuy kim ngạch chỉ đạt 1,7 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ tăng gấp 7,3 lần.
Bất chấp hàng loạt vụ phòng vệ thương mại đổ lên các sản phẩm sắt thép xuất khẩu của Việt Nam, nhưng kết thúc năm 2018, ngành thép vẫn có một năm xuất khẩu bội thu, khi giá trị xuất khẩu, chỉ tính riêng sắt thép các loại, đã tăng thêm gần 1,5 tỷ USD so với năm 2017.
Sau khi sụt giảm ở tháng đầu năm 2019, thì sang đến tháng 2 và tháng 3 (tính đến ngày 15/3/2019), nhập khẩu xe ô tô nguyên chiếc liên tục tăng trưởng. Số liệu từ Tổng cục Hải
Theo số liệu ước tính của Cục XNK (Bộ Công Thương), tháng 3/2019 Việt Nam đã nhập khẩu 100 triệu USD sữa và sản phẩm, tăng 2,4% so với tháng 2/2019 nhưng giảm 8,1% so với tháng 3/2018.
Ước tính nhập khẩu hạt điều trong quý 1/2019 tăng 0,5% về lượng nhưng giảm 23,9% trị giá so với cùng kỳ.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong 2 tháng đầu năm 2019 đạt 1,39 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2018.
-Là thị trường chiếm 64% tổng lượng phân bón xuất khẩu, Đông Nam Á đã trở thành thị trường chủ lực xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Brazil trong tháng 2/2019 giảm mạnh tới 46% so với tháng 1/2019 chỉ đạt 102,3 triệu USD, tuy nhiên tính cả hai tháng đầu năm 2019, con số này chỉ giảm nhẹ 13,44% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 291,6 triệu USD.
Mặc dù hai tháng đầu năm Việt Nam xuất siêu sang Lào, nhưng ngược lại Việt Nam cũng nhập khẩu từ Lào với kim ngạch khá cao 74,3 triệu USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự