Việt Nam nhập khẩu bông nhiều nhất từ thị trường Mỹ, chiếm 52,8% trong tổng lượng và chiếm 54,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu bông của cả nước.

Việt Nam là nước sản xuất chè lớn thứ 7 và là nước xuất khẩu chè lớn thứ 5 toàn cầu, với 124.000 ha diện tích trồng chè và hơn 500 cơ sở sản xuất, chế biến chè với công suất đạt trên 500.000 tấn chè khô/năm.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, lượng chè xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 6/2018 tăng 15,5% về lượng và 22,6% trị giá so với tháng 5/2018 đạt 11,6 nghìn tấn; 20,4 triệu USD – đây là tháng tăng thứ 4 liên tiếp. Nâng lượng chè xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018 lên 56,5 nghìn tấn, trị giá 91,2 triệu USD, giảm 10,4% về lượng và giảm 6,1% trị giá so với cùng kỳ năm 2017. Giá chè xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2018 đạt 1.614,78 USD/tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2017.
Cho đến nay, Pakistan vẫn là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam. Cụ thể, trong quý 1/2018, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu chè vào Pakistan đạt 4.067 tấn, chiếm 16% tổng lượng xuất khẩu (giảm 28,9% so với cùng kỳ năm trước), kim ngạch đạt 8,45 triệu USD (giảm 19,2%). Mặc dù giảm cả về lượng và kim ngạch nhưng giá xuất khẩu lại tăng 13,7%, đạt 2.077 USD/tấn.
Bước sang quý 2/2018, tình hình xuất khẩu chè sang thị trường Pakistan đã cải thiện mặc dù tháng 4/2018 lượng chè xuất khẩu sang Pakistan giảm, nhưng kết quả chè trong 6 tháng đầu năm 2018 sang thị trường này tăng chiếm 23,7% thị phần, đạt 13,3 nghìn tấn, trị giá 29,9 triệu USD, tăng 10,85% về lượng và 22,31% trị giá, giá xuất bình quân đạt 2234,81 USD/tấn, tăng 10,34% so với cùng kỳ 2017. Tính riêng tháng 6/2018, xuất khẩu chè sang Pakistan đạt 4,1 nghìn tấn, trị giá 9,6 triệu USD, tăng mạnh 62,58% về lượng và 66,07% trị giá so với tháng 5/2018, giá xuất bình quân cũng tăng 2,14% đạt 2329,06 USD/tấn.
Thị trường xuất nhiều đứng thứ hai sau Pakistan là Đài Loan (TQ) đạt trên 8 nghìn tấn, trị giá 12,6 triệu USD tăng 6,36% về lượng và 3,43% trị giá, giá xuất bình quân 1557,78 USD/tấn, giảm 2,75% so với cùng kỳ. Kế đến là Nga, tuy nhiên xuất khẩu sang Nga giảm 14,75% về lượng và 4,5% trị giá tương ứng với 7,3 nghìn tấn, 11 triệu USD.
Đối với thị trường Trung Quốc lục địa, mặc dù có vị trí địa lý thuận lợi trong việc giao thương hàng hóa nhưng thị trường này chỉ đứng thứ 4 trong bảng xếp hạng, đạt 5,3 nghìn tấn; 6,9 triệu USD, tăng 6,01% về lượng và 6,47% trị giá, giá xuất bình quân 1282,6 USD/tấn, tăng 0,43% so với cùng kỳ.
Ngoài những thị trường xuất khẩu chính kể trên, Việt Nam còn xuất khẩu chè sang các quốc gia khác như UAE, Đức, Thổ Nhĩ, Saudi Arabia…
Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2018, lượng chè xuất sang các thị trường đều có tốc độ tăng trưởng chiếm 62,5%. Đặc biệt, xuất sang thị trường Philippines tăng đột biến cả về lượng và trị giá, tuy chỉ đạt 375 tấn, 978,9 nghìn USD, nhưng tăng gấp 6,8 lần về lượng (tức tăng 681,25%) và gấp hơn 18,7 lần (tức tăng 1869,91%) về trị giá, giá xuất bình quân 2610,41 USD/tấn, tăng 152,15% so với cùng kỳ năm trước. Ngược lại, xuất sang UAE giảm mạnh 57,14% về lượng và 56,65% trị giá tương ứng với 891 tấn; 1,2 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu chè 6 tháng đầu năm 2018
Thị trường | 6T/2018 | +/- so với cùng kỳ 2017 (%)* | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Pakistan | 13.399 | 29.944.213 | 10,85 | 22,31 |
Đài Loan (TQ) | 8.097 | 12.613.307 | 6,36 | 3,43 |
Nga | 7.316 | 11.015.758 | -14,75 | -4,5 |
Trung Quốc | 5.397 | 6.922.209 | 6,01 | 6,47 |
Indonesia | 4.481 | 4.380.517 | -8,7 | 4,83 |
Mỹ | 3.300 | 3.771.724 | 12,28 | 10,23 |
Malaysia | 2.014 | 1.597.535 | 20,67 | 30,82 |
Saudi Arabia | 962 | 2.524.071 | 16,75 | 26,77 |
UAE | 891 | 1.281.039 | -57,14 | -56,65 |
Ba Lan | 547 | 830.672 | 0 | -12,51 |
Ukraine | 470 | 788.285 | -5,62 | 3,97 |
Ấn Độ | 395 | 368.488 | -71,42 | -77,96 |
Philippines | 375 | 978.905 | 681,25 | 1,869,91 |
Đức | 243 | 1.172.877 | 35 | 139,49 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 198 | 400.569 | -39,08 | -45,94 |
Kuwait | 17 | 45.448 | 13,33 | 12,53 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Việt Nam nhập khẩu bông nhiều nhất từ thị trường Mỹ, chiếm 52,8% trong tổng lượng và chiếm 54,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu bông của cả nước.
Nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ 6 tháng đầu năm trị giá trên 5,82 tỷ USD, tăng 23,2%.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 2 quý đầu năm nay cả nước đã nhập khẩu hơn 2,47 triệu tấn sắt thép phế liệu, trị giá 880,58 triệu USD, tăng rất mạnh so với cùng kỳ năm trước, tăng 19,7% về lượng và trên 51% về kim ngạch. Giá nhập trung bình 355,9 USD/tấn, tăng 26% so với cùng kỳ.
6 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Bỉ thu về 1,2 tỷ USD, trong đó mặt hàng săt thép chiếm 9,4% tỷ trọng , tăng gấp hơn 2 lần cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ 2017.
Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc đạt 46,81 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2018.
Sản phẩm túi xách, ví, va li xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Mỹ, chiếm tới 36,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Có 2 lý do, giá gạo Việt Nam tăng cao và các nước khác đẩy mạnh xuất khẩu vào Trung Quốc. Nên trong nửa đầu năm 2018, xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc giảm đến 27,4% về khối lượng.
Xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Ấn Độ trong nửa đầu năm 2018 đạt 3,3 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm 2017.
2 quý đầu năm, nguyên liệu nhựa nhập khẩu đạt 2,66 triệu tấn, tương đương 4,33 tỷ USD, tăng 12,7% về lượng và tăng 23,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 6/2018 kim ngạch nhập khẩu hàng điện gia dụng và linh kiện đạt 151,73 triệu USD, giảm 23,3% so với tháng liền kề trước đó và cũng giảm 3,7% so với cùng tháng năm 2017. Tổng kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm đạt 1,11 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự