Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu thuỷ sản của cả nước 6 tháng đầu năm 2016 đạt 3,08 tỷ USD, tăng 2,67% so với cùng kỳ năm 2015.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng 7/2018 đạt 11.671 tấn, thu về 20,03 triệu USD, giảm 0,06% về lượng và giảm 1,9% về kim ngạch so với tháng 6/2018. So với tháng 7/2017 cũng giảm 13,6% về lượng và giảm 12,8% về kim ngạch.
Tính chung cả 7 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 68.103 tấn chè các loại, thu về 111,15 triệu USD, giảm 11,3% về lượng và giảm 7,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Giá chè xuất khẩu bình quân 7 tháng đầu năm ở mức 1.632 USD/tấn, tăng 4%.
Pakistan là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại chè của Việt Nam, chiếm 24,5% trong tổng khối lượng chè xuất khẩu của cả nước và chiếm 33,6% trong tổng kim ngạch, đạt 16.686 tấn, tương đương 37,3 triệu USD, tăng 9,6% về lượng và tăng 18% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Giá xuất khẩu đạt 2.235,3 USD/tấn, tăng 7,7%.
Thị trường lớn thứ 2 là Đài Loan chiếm 14,7% trong tổng khối lượng và chiếm 14% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước, đạt 9.981 tấn, tương đương trên 15,55 triệu USD, tăng 4,5% về lượng và tăng 1% về trị giá so với cùng kỳ. Giá xuất khẩu đạt 1.558 USD/tấn, giảm 3,4%.
Tiếp sau đó là thị trường Nga đạt 8.412 tấn, tương đương trên 12,73 triệu USD, chiếm 12% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch, giảm 13,6% về lượng nhưng giảm 3,6% về kim ngạch. Tuy nhiên, giá tăng 11,7%, đạt 1.513,8 USD/tấn.
Xuất khẩu chè sang thị trường Trung Quốc tăng cả lượng, kim ngạch và giá với mức tăng tương ứng 1,6%, 12,6% và 10,8% so với cùng kỳ, đạt 6.672 tấn, tương đương 9,08 triệu USD, giá trung bình 1.360,8 USD/tấn.
Chè xuất sang thị trường Đông Nam Á chiếm 11,9% trong tổng lượng chè xuất khẩu của cả nước và chiếm 7,4% trong tổng kim ngạch, đạt 8.101 tấn, tương đương 8,28 triệu USD, tăng 6,2% về lượng và tăng 27,2% về kim ngạch.
Nhìn chung, xuất khẩu chè sang đa số các thị trường trong 7 tháng đầu năm nay đều tăng cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng các thị trường lớn thì mức tăng không nhiều. Tuy nhiên, một số thị trường tuy kim ngạch rất ít nhưng so với cùng kỳ năm ngoái lại tăng mạnh như: Philippines tăng 205,5% về lượng, đạt 446 tấn; tăng 270% về kim ngạch, đạt 1,14 triệu USD. Đức tăng 9,2% về lượng và tăng 87,8% về kim ngạch, đạt 260 tấn, trị giá 1,22 triệu USD. Malaysia tăng 16% về lượng và tăng 22,2% về trị giá, đạt 2.245 tấn, trị giá 1,75 triệu USD. Saudi Arabi tăng 11,3% về lượng và tăng 18,2% trị giá.
Ngược lại, xuất khẩu chè sang thị trường Ấn Độ lại sụt giảm mạnh nhất giảm 71% về lượng và giảm 75,8% về kim ngạch, chỉ đạt 435 tấn, trị giá 0,43 triệu USD; xuất sang U.A.E cũng giảm mạnh 61% về lượng và giảm 59,8% về kim ngạch; Thổ Nhĩ Kỳ giảm 42,9% về lượng và giảm 46,9% kim ngạch.
Xuất khẩu chè 7 tháng đầu năm 2018
Thị trường | 7T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%)* | ||
Lượng | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng kim ngạch XK | 68.103 | 111.151.357 | -11,28 | -7,74 |
Pakistan | 16.686 | 37.297.747 | 9,63 | 18,08 |
Đài Loan(TQ) | 9.981 | 15.552.105 | 4,52 | 1,01 |
Nga | 8.412 | 12.734.315 | -13,63 | -3,56 |
Trung Quốc | 6.672 | 9.078.989 | 1,63 | 12,57 |
Indonesia | 5.410 | 5.387.404 | -2,47 | 13,08 |
Mỹ | 3.710 | 4.223.813 | 4,65 | 1,48 |
Saudi Arabia | 1.017 | 2.646.762 | 11,27 | 18,16 |
U.A.E | 1.259 | 1.877.990 | -60,97 | -59,84 |
Malaysia | 2.245 | 1.752.665 | 15,96 | 22,19 |
Đức | 260 | 1.216.663 | 9,24 | 87,75 |
Philippines | 446 | 1.135.862 | 205,48 | 270,1 |
Ukraine | 587 | 1.014.313 | 1,73 | 14,14 |
Ba Lan | 621 | 946.612 | -0,32 | -10,56 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 226 | 473.817 | -42,93 | -46,92 |
Ấn Độ | 435 | 432.585 | -71,12 | -75,79 |
Kuwait | 17 | 45.448 | 13,33 | 12,53 |
*Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu thuỷ sản của cả nước 6 tháng đầu năm 2016 đạt 3,08 tỷ USD, tăng 2,67% so với cùng kỳ năm 2015.
Số liệu từ TCHQ Việt Nam cho thấy, nửa đầu năm nay, nhập khẩu đậu tương của cả nước suy giảm cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ 2015, giảm lần lượt 11,5% và 23,7%, tương ứng với 764,4 nghìn tấn, trị giá 308,8 triệu USD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu rau quả trong 6 tháng đầu năm ước đạt 1,16 tỷ USD, tăng 31,22% so với cùng kỳ năm 2015. Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả Việt Nam nhiều nhất, đạt 803,8 triệu USD, tăng gần 218% so với cùng kỳ năm 2015, chiếm tới 69,5% tổng lượng rau quả xuất khẩu của cả nước.
Gỗ là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong năm 2015, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt 6,9 tỷ USD, đưa Việt Nam thành nước xuất khẩu đồ gỗ lớn thứ 4 trên thế giới, sau Trung Quốc, Đức và Ý.
Trung Quốc là thị trường chính Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất trong nửa đầu năm nay, chiếm 52% tổng kim ngạch, đạt 2,6 tỷ USD, tăng 3,99% so với cùng kỳ.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm 2016 lượng thép nhập khẩu về Việt Nam là 9,66 triệu tấn , trị giá 3,8 tỷ USD (tăng 39,98% về lượng nhưng giảm 0,26% về trị giá). Lượng thép nhập khẩu 6 tháng đã gần bằng 2/3 tổng lượng thép nhập khẩu trong cả năm 2015 (là 15,098 triệu tấn).
Sáu tháng đầu năm, ngành thủy sản liên tục gặp khó khăn trong nuôi trồng và khai thác thủy sản. Hạn hán, xâm ngập mặn ở các tỉnh ĐBSCL làm ảnh hưởng đến nuôi trồng sản xuất tôm, cá tra. Sự cố môi trường xảy ra ở 4 tỉnh miền Trung tuy không ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu cho chế biến XK nhưng cũng gây lo ngại cho các nhà NK nước ngoài, dẫn đến việc cảnh báo tăng cường kiểm tra hàng thủy sản NK từ Việt Nam.
Tính chung từ đầu năm cho đến hết tháng 6 đã nhập khẩu 303,9 triệu USD, giảm 5,67% so với cùng kỳ năm 2015.
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu lúa mì từ Austrlaia, chiếm 45,9% tổng lượng lúa mì nhập khẩu.
Mặt hàng phân bón của Việt Nam đã có mặt tại 8 quốc gia trên thế giới, trong đó chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Campuchia, chiếm 27,9%...
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự