Trong 4 tháng đầu năm 2019 Việt Nam xuất siêu hàng hóa sang thị trường Canada 896,14 triệu USD, tăng rất mạnh 73,4% so với cùng kỳ.

4 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu chè đạt 36.044 tấn, trị giá 62,61 triệu USD, tăng 3,1% về lượng và tăng 14,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng 4/2019 đạt 9.376 tấn, tương đương 15,94 triệu USD, tăng 1,1% về lượng, nhưng giảm 4,3% về trị giá so với tháng 3/2019; nhưng so với cùng tháng năm 2018 thì giảm 1,8% về lượng nhưng tăng 3,3% về kim ngạch.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu chè đạt 36.044 tấn, trị giá 62,61 triệu USD, tăng 3,1% về lượng và tăng 14,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018. Giá xuất khẩu chè trung bình 4 tháng đầu năm là 1.737 USD/tấn, tăng 11%. Riêng tháng 4 đạt 1.700 USD/tấn, giảm 5,3% so với tháng 3/2019 nhưng tăng 5,2% so với tháng 4/2018.
Trong 4 tháng đầu năm, chè xuất khẩu sang thị trường Pakistan nhiều nhất và cũng tăng mạnh về lượng và trị giá so với cùng kì năm 2018, tăng 58,5% về lượng và tăng 44% về kim ngạch, đạt 10.639 tấn, tương đương 20,87 triệu USD; chiếm 29,5% trong tổng lượng và chiếm 33,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước. Giá xuất khẩu bình quân mặt hàng chè sang thị trường Pakistan đạt 1.962 USD/tấn, giảm 9,2%.
Theo sau là thị trường Đài Loan đạt 4.822 tấn, trị giá 7,31 triệu USD, tăng 10% về lượng và 14,3% về trị giá. Giá xuất khẩu bình quân mặt hàng chè sang thị trường Đài Loan đạt 1.515 USD/tấn, tăng 4% sới cùng kỳ.
Mặc dù lượng chè xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc giảm mạnh trong 4 tháng đầu năm, nhưng kim ngạch xuất khẩu bình quân mặt hàng chè sang thị trường này tăng mạnh. Cụ thể, xuất sang Trung Quốc 2.001 tấn, giảm 26,5% nhưng kim ngạch đạt 7,04 triệu USD, tăng 94%. Giá xuất khẩu cũng tăng rất mạnh 164%, đạt 3.518 USD/tấn.
Xuất khẩu chè sang thị trường Nga giảm 12,9% về lượng và giảm 11,5% về kim ngạch nhưng giá tăng 1,5%. Cụ thể, xuất sang Nga 4.517 tấn, tương đương 7,08 triệu USD, giá 1.567,3 USD/tấn.
Nhìn chung xuất khẩu chè 4 tháng đầu năm nay sang đa số các thị trường bị sụt giảm kim ngạch so với 4 tháng đầu năm trước, nhưng xuất sang các thị trường chủ đạo vẫn tăng trưởng tốt; trong số các thị trường sụt giảm thì xuất sang các nước EU giảm mạnh nhất như: sang Đức giảm 88,5% về lượng và giảm 83,5% về kim ngạch, đạt 21 tấn, tương đương 0,13 triệu USD; sang Ba Lan giảm 28,5% về lượng và giảm 37,6% về kim ngạch, đạt 318 tấn, tương đương 0,43 triệu USD.
Xuất khâu chè 4 tháng đầu năm 2019
ĐVT: USD
Thị trường | 4T/2019 | +/- so với cùng kỳ (%)* | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng cộng | 36.044 | 62.612.560 | 3,08 | 14,4 |
Pakistan | 10.639 | 20.872.413 | 58,53 | 44,03 |
Đài Loan (TQ) | 4.822 | 7.306.724 | 9,97 | 14,3 |
Nga | 4.517 | 7.079.655 | -12,87 | -11,53 |
Trung Quốc đại lục | 2.001 | 7.039.662 | -26,51 | 94,18 |
Indonesia | 3.059 | 2.819.300 | -8,82 | -15,16 |
Iraq | 1.829 | 2.763.603 |
|
|
Mỹ | 1.540 | 1.965.767 | -33,73 | -24,77 |
Saudi Arabia | 731 | 1.882.594 | -0,95 | -4,12 |
Malaysia | 1.367 | 1.071.266 | -2,84 | -6,74 |
Philippines | 301 | 778.960 | 32,02 | 30,62 |
Ukraine | 464 | 768.631 | 9,18 | 5,93 |
U.A.E | 266 | 474.598 | -61,78 | -51,17 |
Ba Lan | 318 | 431.779 | -28,54 | -37,55 |
Ấn Độ | 238 | 361.557 | -15,3 | 38,38 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 81 | 156.061 | -50 | -52,95 |
Đức | 21 | 126.875 | -88,52 | -83,54 |
(*Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Trong 4 tháng đầu năm 2019 Việt Nam xuất siêu hàng hóa sang thị trường Canada 896,14 triệu USD, tăng rất mạnh 73,4% so với cùng kỳ.
Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, 4 tháng đầu năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2 chiều giữa Vệt Nam – Trung Quốc đạt 33,24 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2018.
Xuất khẩu phân bón đã lấy lại đà tăng trưởng, tháng 4/2019 là tháng tăng thứ hai liên tiếp. Trong số những thị trường nhập khẩu phân bón của Việt Nam, thì Nhật Bản tăng vượt trội cả về lượng và trị giá.
Trong năm 2018, mặc dù quan hệ ngoại giao - chính trị giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ có bước tiến mới, nhưng quan hệ thương mại không có nhiều biến chuyển, thậm chí kim ngạch thương mại song phương còn sụt giảm, quan hệ đầu tư giữa hai nước hầu như không có tiến triển. Bốn tháng đầu năm 2019, tình hình cũng chưa mấy sáng sủa khi số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Thổ Nhỹ sụt giảm 26,13% so với cùng kỳ năm ngoái đạt 445,66 triệu USD.
Xuất khẩu giấy và sản phẩm sang hai thị trường Đức và Anh tăng vượt trội so với cùng kỳ, tuy kim ngạch xuất sang những thị trường này cao nhất chỉ đạt trên 2 triệu USD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Ba Lan trong tháng 4/2019 giảm 12,05% so với tháng trước đó, nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu trong cả 4 tháng đầu năm 2019 lại tăng nhẹ 18,69% đạt 494,27 triệu USD.
Số liệu thống kê của TCHQ Việt Nam cho thấy, tính chung cán cân thương mại hàng hóa từ đầu năm đến ngày 15/5 thâm hụt 1,01 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 88,9 tỷ USD, tăng 6,7% và nhập khẩu đạt 89,9 tỷ USD, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Chile trong 4 tháng đầu năm 2019 sụt giảm 20,49% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 228,66 triệu USD.
Trong những năm qua, mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Áo không ngừng phát triển. Áo là một trong những nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, là đối tác thương mại lớn thứ 5 của Việt Nam trong EU.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong 4 tháng đầu năm 2019 đạt 631.946 tấn, tương đương 1,09 tỷ USD, giảm 7,8% về lượng và giảm 17,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự