Quý 1/2019 xuất khẩu than đá của cả nước đạt 31.381 tấn, thu về 4,34 triệu USD, giảm mạnh 94,6% về lượng và giảm 94,2% về kim ngạch so với quý 1/2018.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong tháng 3/2019 tăng mạnh trở lại gần 40% cả về lượng và kim ngạch sau khi giảm 38% cả về lượng và kim ngạch trong tháng trước đó.
Cụ thể, tháng 3 xuất khẩu 171.080 tấn cà phê, thu về 298,53 triệu USD, nâng tổng lượng cà phê xuất khẩu cả quý 1/2019 lên 488.648 tấn cà phê, tương đương 850,09 triệu USD, giảm 7,7% về lượng và giảm 17,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.
Giá cà phê xuất khẩu trung bình trong tháng 3/2019 đạt 1.734,8 USD/tấn, tăng 0,1% so với tháng 2/2019, nhưng giảm 10,3% so với tháng 3/2018. Tính trung bình, giá cà phê xuất khẩu trong quý 1/2019 đạt 1.739,7 USD/tấn, giảm 10,5% so với quý 1/2018.
Trong quý 1 năm nay, xuất khẩu cà phê sang hầu hết các thị trường bị sụt giảm kim ngạch so với quý 1/2018; trong đó, xuất khẩu sang các thị trường Indonesia, Mexico, Nam Phi, Đan Mạch giảm rất mạnh từ 60% - 86% cả về lượng và kim ngạch. Ngược lại, xuất khẩu tăng mạnh ở một số thị trường như: Malaysia tăng 49,8% về lượng và tăng 22,9% về kim ngạch, đạt 13.551 tấn, trị giá 22,06 triệu USD; Thái Lan tăng 34,7% về lượng và tăng 5,4% về trị giá, đạt 2.540 tấn, trị giá 6,16 triệu USD; Cà phê xuất khẩu sang Romania mặc dù tăng mạnh 39% về lượng nhưng lại giảm 7,7% về trị giá, đạt 1.118 tấn, trị giá 2,55 triệu USD.
Cà phê của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Đức chiếm 13,3% trong tổng lượng và chiếm 12,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước đạt 65.019 tấn, tương đương 106,33 triệu USD, giá 1.635,3 USD/tấn, giảm 13% về lượng, giảm 22% về kim ngạch và giảm 10,4% về giá so với cùng kỳ năm 2018.
Tiếp đến thị trường các nước Đông Nam Á chiếm 9,4% trong tổng lượng và chiếm 11,1% tổng kim ngạch, đạt 46.105 tấn, tương đương 94,92 triệu USD, giảm 2% về lượng nhưng tăng 2,4% về kim ngạch so với cùng kỳ. Giá xuất tăng 4,5%, đạt trung bình 2.058,8 USD/tấn.
Mỹ xếp thứ 3 về kim ngạch chiếm gần 10% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả nước, đạt 48.935 tấn, trị giá 84,15 triệu USD, giảm 19,8% về lượng và giảm 28,9% về kim ngạch so với cùng kỳ. Giá cà phê xuất sang Mỹ giảm 11,3%, đạt trung bình 1.719,6 USD/tấn.
Tiếp đến thị trường Italia chiếm 9% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 44.959 tấn, trị giá 73,64 triệu USD, tăng 20,2% về lượng và tăng 4,6% về kim ngạch. Giá xuất giảm 13%, đạt 1.637,9 USD/tấn.
Xuất khẩu cà phê quý 1 năm 2019
ĐVT: USD
Thị trường | Quý 1/2019 | +/- so với cùng kỳ (%)* | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng cộng | 488.648 | 850.094.595 | -7,67 | -17,32 |
Đức | 65.019 | 106.327.791 | -12,95 | -22,02 |
Mỹ | 48.935 | 84.147.977 | -19,79 | -28,86 |
Italia | 44.959 | 73.637.095 | 20,18 | 4,57 |
Tây Ban Nha | 36.896 | 61.267.121 | 17,26 | 5,51 |
Philippines | 22.234 | 49.736.088 | 4,58 | 21,87 |
Nga | 26.110 | 49.585.640 | 1,58 | -7,71 |
Nhật Bản | 26.554 | 47.020.406 | -12,49 | -22,87 |
Bỉ | 24.042 | 39.016.761 | 12,64 | 1,2 |
Algeria | 16.545 | 26.965.517 | -25,19 | -34,17 |
Anh | 16.377 | 26.678.312 | 8,82 | -4,65 |
Trung Quốc đại lục | 10.768 | 24.096.208 | 12,38 | -2,02 |
Malaysia | 13.551 | 22.059.992 | 49,75 | 22,93 |
Hàn Quốc | 8.454 | 17.054.639 | -11,18 | -16,31 |
Pháp | 10.780 | 16.781.988 | -13,97 | -26,96 |
Ấn Độ | 9.651 | 15.209.136 | -33,68 | -41,93 |
Indonesia | 6.587 | 11.907.222 | -85,61 | -86,32 |
Australia | 4.317 | 8.137.632 | -16,08 | -18,85 |
Bồ Đào Nha | 4.688 | 7.825.068 | 5,47 | -4,15 |
Ba Lan | 3.789 | 7.145.544 | 3,27 | -17,67 |
Thái Lan | 2.540 | 6.155.734 | 34,68 | 5,35 |
Ai Cập | 3.449 | 5.583.481 | -7,58 | -16,19 |
Mexico | 3.305 | 5.126.485 | -67,18 | -70,47 |
Israel | 1.977 | 5.041.704 | 18,81 | -8,6 |
Hà Lan | 2.813 | 4.906.259 | 14,68 | -11,81 |
Hy Lạp | 2.989 | 4.853.008 | -24,69 | -33,76 |
Lào | 799 | 3.697.108 |
|
|
Chile | 1.997 | 3.417.853 |
|
|
Canada | 1.803 | 3.279.491 | 17,08 | 9,75 |
Ukraine | 1.382 | 2.868.887 |
|
|
Romania | 1.118 | 2.550.468 | 39,05 | -7,77 |
Hungary | 371 | 2.166.412 |
|
|
Nam Phi | 1.028 | 1.570.659 | -76,01 | -79,97 |
Phần Lan | 533 | 1.334.465 |
|
|
New Zealand | 404 | 745.348 | -40,06 | -38,48 |
Singapore | 216 | 698.871 | -17,24 | -17,64 |
Đan Mạch | 337 | 564.998 | -52,6 | -58,25 |
Campuchia | 148 | 562.570 | -10,3 | -25,35 |
Myanmar | 30 | 101.711 |
|
|
(Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Quý 1/2019 xuất khẩu than đá của cả nước đạt 31.381 tấn, thu về 4,34 triệu USD, giảm mạnh 94,6% về lượng và giảm 94,2% về kim ngạch so với quý 1/2018.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu sau khi sụt giảm cả về lượng và kim ngạch trong tháng 2/2019, thì tháng 3/2019 tăng mạnh 110,5% về khối lượng và tăng 102,3% về kim ngạch so với tháng 2/2019, đạt 35.269 tấn, tương đương 89,45 triệu USD; so với tháng 3/2018 thì tăng 17,3% về lượng nhưng giảm 15,8% về kim ngạch.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sau khi sụt giảm mạnh trên 60% trong tháng 2/2019 thì sang tháng 3/2019 lại tăng rất mạnh 93,7% so với tháng liền kề trước đó, đạt 2,53 tỷ USD; so với cùng tháng năm 2018 cũng tăng 9,3%.
Trung Quốc – thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 4 tháng năm 2019, kim ngạch tăng so với cùng kỳ, trong đó nhóm hàng điện tử máy tính và linh kiện tăng gần 81%...
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, quý 1/2019 cả nước xuất khẩu gần 8,56 triệu tấn xi măng và clinker, thu về 364,57 triệu USD, tăng 0,6% về lượng và tăng 22,8% về kim ngạch so với quý 1/2018. Giá xuất khẩu tăng 22%, đạt trung bình 42,6 USD/tấn.
4 tháng có 16 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 81,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó một số mặt hàng có giá trị tăng so với cùng kỳ năm trước…
Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ quý 1/2019 đạt gần 2,27 tỷ USD – đứng đầu về kim ngạch trong nhóm hàng xuất khẩu của ngành nông nghiệp, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó, riêng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 1,62 tỷ USD, chiếm 71,2%, tăng 19,3%.
Quý 1/2019 xuất khẩu nhóm hàng rau quả của cả nước đạt 948,87 triệu USD, giảm nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Mặc dù kết thúc quý 1/2019 thương mại giữa Việt Nam và Australia ở thế nhập siêu, nhưng ngược lại Australia cũng phải nhập từ Việt Nam với kim ngạch không nhỏ trên 800 triệu USD, giảm 13,34% so với quý 1/2018, trong đó hai nhóm hàng xi măng và gạo có tốc độ tăng vượt trội.
Kết thúc quý 1/2019 Việt Nam nhập siêu từ Australia trên 100 triệu USD, trong đó các mặt hàng sữa và sản phẩm từ sữa, thức ăn chăn nuôi và chế phẩm thực phẩm tăng vượt trội.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự