Lần đầu tiên ngành gỗ đạt kim ngạch xuất khẩu 4,85 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm 2018. Mặc dù cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung diễn ra, nhưng hiện vẫn chưa ảnh hưởng tới ngành gỗ Việt Nam.

7 tháng đầu năm, cả nước xuất khẩu 3,93 triệu tấn gạo, tương đương 1,99 tỷ USD, tăng 13,7% về lượng và tăng 30,5% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 7/2018 cả nước xuất khẩu 444.235 tấn gạo, thu về 221,72 triệu USD, giảm 17,4% về lượng và giảm 21,1% về kim ngạch so với tháng 6/2018 và cũng giảm 23,7% về lượng và giảm 10,5% về kim ngạch so với tháng 7/2017.
Tính chung cả 7 tháng đầu năm, lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt 3,93 triệu tấn gạo, tương đương 1,99 tỷ USD, tăng 13,7% về lượng và tăng 30,5% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017.
Giá gạo xuất khẩu trung bình trong tháng 7/2018 đạt 499,1 USD/tấn, giảm 4,5% so với tháng liền kề trước đó nhưng tăng 17,4% so với tháng 7/2017. Giá trung bình trong 7 tháng đầu năm đạt 506,8 USD/tấn, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Gạo của Việt Nam xuất khẩu sang rất nhiều thị trường trên thế giới, trong đó chủ yếu sang các thị trường như: Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Malaysia, Gana, Bờ biển Ngà, Iraq.
Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc mặc dù giảm mạnh 32,8% về lượng và giảm 21,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng vẫn dẫn đầu thị trường về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 23,6% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước và chiếm 24,7% trong tổng kim ngạch, đạt 926.961 tấn, tương đương 491,01 triệu USD.
Trong 7 tháng đầu năm nay, Indonesia tăng cường nhập khẩu gạo từ Việt Nam, với lượng tăng đột biến gấp 50 lần so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 770.046 tấn và kim ngạch tăng gấp 67,5 lần, đạt 361,37 triệu USD, chiếm 19,6% trong tổng lượng và chiếm 18,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Tiếp sau đó là thị trường Philippines chiếm 11,7% trong tổng lượng và chiếm 10,9% trong tổng kim ngạch, đạt 458.811 tấn, tương đương 217,13 triệu USD, tăng 66,8% về lượng và tăng 103,2% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Lượng gạo xuất khẩu sang Malaysia đạt 338.182 tấn, tương đương 154,52 triệu USD, chiếm 8,7% trong tổng lượng và chiếm 7,8% trong tổng kim ngạch, tăng 17,1% về lượng và tăng 39,4% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Nhìn chung, xuất khẩu gạo trong 7 tháng đầu năm nay sang các thị trường chủ lực đều tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, có một số thị trường rất đáng chú ý vì kim ngạch không cao nhưng so với cùng kỳ thì tăng rất mạnh như: Thổ Nhĩ Kỳ tăng 443% về lượng và tăng 521% về kim ngạch, đạt 4.497 tấn, tương đương 2,59 triệu USD. Pháp tăng 285% về lượng và tăng 205,6% về kim ngạch, đạt 751 tấn, tương đương 0,56 triệu USD. Ba Lan tăng 126,7% về lượng và tăng 162,9% về kim ngạch, đạt 1.435 tấn, tương đương 0,84 triệu USD. Iraq tăng 120,5% về lượng và tăng 153,5% về kim ngạch, đạt 150.000 tấn, tương đương 85,56 triệu USD.
Tuy nhiên, xuất khẩu gạo sang các thị trường như: Senegal, Brunei, Chile, Bangladesh sụt giảm rất mạnh trên 90% cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, xuất sang Senegal 47 tấn, sang Brunei 345 tấn, Chile 213 tấn, Bangladesh 19.660 tấn.
Xuất khẩu gạo 7 tháng đầu năm 2018
Thị trường | 7T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%)* | ||
Lượng (tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng cộng | 3.926.795 | 1.989.943.166 | 13,66 | 30,49 |
Trung Quốc | 926.961 | 491.009.775 | -32,84 | -21,22 |
Indonesia | 770.046 | 361.370.001 | 4.949,48 | 6.649,94 |
Philippines | 458.811 | 217.133.786 | 66,83 | 103,19 |
Malaysia | 338.182 | 154.521.148 | 17,13 | 39,39 |
Ghana | 192.351 | 113.509.456 | 2,87 | 20,26 |
Bờ Biển Ngà | 153.187 | 89.447.685 | 1,54 | 33,49 |
Iraq | 150.000 | 85.560.000 | 120,51 | 153,54 |
Singapore | 49.967 | 27.939.183 | -14,24 | -2,92 |
Hồng Kông (TQ) | 47.089 | 27.043.733 | 42,95 | 61,3 |
U.A.E | 27.671 | 15.213.687 | 4,37 | 11 |
Bangladesh | 19.660 | 8.445.640 | -90,17 | -90,19 |
Mỹ | 12.063 | 7.511.231 | -16,6 | -2,09 |
Đài Loan (TQ) | 11.796 | 5.965.093 | -40,78 | -33,54 |
Algeria | 10.575 | 4.721.371 | -61,15 | -55,66 |
Nga | 6.660 | 2.959.528 | -64,99 | -59,39 |
Australia | 5.649 | 3.788.709 | -3,1 | 14,29 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 4.497 | 2.586.936 | 443,12 | 521,23 |
Angola | 2.942 | 1.671.441 | -78,22 | -67,26 |
Nam Phi | 1.897 | 1.098.441 | -56,59 | -42,07 |
Hà Lan | 1.763 | 972.234 | -32,94 | -17,05 |
Ba Lan | 1.435 | 835.273 | 126,7 | 162,88 |
Ukraine | 824 | 499.009 | -83,16 | -75,72 |
Pháp | 751 | 558.224 | 285,13 | 205,64 |
Tây Ban Nha | 500 | 259.328 | -21,51 | -5,91 |
Bỉ | 495 | 292.182 | -80,87 | -72,63 |
Brunei | 345 | 157.853 | -96,88 | -96,4 |
Chile | 213 | 165.133 | -95,12 | -90,42 |
Senegal | 47 | 33.493 | -99,81 | -99,58 |
(*Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Lần đầu tiên ngành gỗ đạt kim ngạch xuất khẩu 4,85 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm 2018. Mặc dù cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung diễn ra, nhưng hiện vẫn chưa ảnh hưởng tới ngành gỗ Việt Nam.
Nhìn chung, nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu từ đa số các thị trường trong 7 tháng đầu năm nay đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nhập từ Ấn Độ tăng mạnh nhất.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trị giá xuất khẩu hàng hóa cả nước trong tháng đạt 20,32 tỷ USD, tăng 2,4% so với tháng trước, tương ứng tăng 475 triệu USD về số tuyệt đối.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018, cả nước nhập khẩu 11,98 triệu tấn than đá, trị giá 1,39 tỷ USD, tăng mạnh trên 51% về lượng và tăng 73% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năm 2017.
ắt thép nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất có xuất xứ từ Trung Quốc, chiếm 48% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu sắt thép của cả nước, đạt 3,88 triệu tấn, trị giá 2,77 tỷ USD.
Thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam ngày càng tăng, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018 kim ngạch nhập khẩu thủy sản đã tăng 30,8% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 1,01 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 17,65 triệu tấn xi măng clinker, thu về 656,3 triệu USD, tăng 63,2% về lượng và tăng 73,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Giá xi măng, clinker xuất khẩu đạt trung bình 37,2 USD/tấn, tăng 6,3%.
Sau khi sụt giảm ở tháng 6/2018, thì nay sang tháng 7 xuất khẩu phân bón đã lấy lại đà tăng trưởng, tăng 18,8% về lượng và 29,7% kim ngạch, đạt 77,7 nghìn tấn, 27,5 triệu USD.
7 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu kim loại và sản phẩm đóng góp vào kim ngạch của cả nước trên 1,3 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 7/2018 đạt 232 triệu USD, giảm mạnh 37,58% so với tháng trước đó nhưng tăng 7,11% so với cùng tháng năm ngoái.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự