Tổng cục Hải quan ghi nhận trong tháng 6 năm 2018, số lượng ô tô nguyên chiếc các loại đăng ký tờ khai hải quan nhập khẩu đạt 3.356 chiếc với trị giá hơn 82 triệu USD, tăng mạnh 45,6% về lượng và tăng 21,4% về trị giá so với tháng 5.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm cả nước xuất khẩu 3,48 triệu tấn gạo, thu về gần 1,77 tỷ USD, tăng 21,6% về lượng và tăng 38,9% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm ngoái. Trong đó, riêng tháng 6/2018 đạt 537.948 tấn, trị giá 281,03 triệu USD, giảm 29,6% về lượng và giảm 28,2% về kim ngạch so với tháng 5/2018. Giá gạo xuất khẩu trung bình trong tháng 6/2018 đạt 522,4 USD/tấn, giá trung bình cả 6 tháng đạt 507,7 USD/tấn.
Trung Quốc luôn duy trì là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại gạo của Việt Nam, chiếm 26% trong tổng lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước, đạt 891.688 tấn, tương đương 474,84 triệu USD, giảm 27,6% về lượng và giảm 14,8% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, giá xuất khẩu trung bình đạt 532,5 USD/tấn, tăng 17,7%.
Gạo xuất khẩu sang Indonesia - thị trường lớn thứ 2 tăng đột biến gấp 45 lần về lượng và gấp 60 lần về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 685.908 tấn, tương đương 322,01 triệu USD, chiếm 19,7% trong tổng lượng và chiếm 18,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước, giá xuất khẩu tăng tương đối mạnh 33,7%, đạt 469,5 USD/tấn.
Thị trường Philippines - thị trường lớn thứ 3 đạt 384.146 tấn, tương đương 183,46 triệu USD, chiếm 11% trong tổng lượng và chiếm 10,4% trong tổng kim ngạch, tăng 43,5% về lượng và tăng 76,8% về kim ngạch, giá xuất khẩu đạt 477,6 USD/tấn, tăng 23,2%.
Tiếp đến thị trường Malaysia đạt 304.178 tấn, tương đương 138,22 triệu USD, chiếm 8,7% trong tổng lượng và chiếm 7,8% trong tổng kim ngạch, tăng 86% về lượng và tăng 112,7% về kim ngạch, giá xuất khẩu đạt 454,4 USD/tấn, tăng 14,3%.
Xuất khẩu gạo trong 6 tháng đầu năm nay, ngoài thị trường Indonesia có mức tăng trưởng đột biến như trên, thì còn một số thị trường đáng chú ý như: Xuất khẩu sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ mặc dù chỉ đạt 4.425 tấn, tương đương 2,54 triệu USD, nhưng so với 6 tháng đầu năm ngoái thì tăng gấp hơn 9 lần về lượng và gấp 11,4 lần về kim ngạch, giá xuất khẩu đạt mức tương đối cao 574,7 USD/tấn, tăng 23,4%.
Xuất khẩu gạo sang thị trường Pháp cũng chỉ đạt 751 tấn, tương đương 0,56 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ năm ngoái thì tăng 317% về lượng và tăng 241,9% về kim ngạch, giá xuất khẩu rất cao 743,3 USD/tấn, giảm 18,1%.
Xuất khẩu gạo sang Iraq cũng tăng tương đối tốt 120,5% về lượng và tăng 153,5% về kim ngạch, đạt 150.000 tấn, tương đương 85,56 triệu USD.
Ngược lại, xuất khẩu gạo sang thị trường Senegal sụt giảm mạnh nhất trên 99% cả về lượng và kim ngạch, đạt 47 tấn, tương đương 0,03 triệu USD. Bên cạnh đó, xuất sang Brunei cũng giảm rất mạnh 97% cả về lượng và kim ngạch, đạt 323 tấn, tương đương 0,14 triệu USD. Xuất sang Bỉ, Bangladesh, Chi Lê cũng giảm trên 90% cả về lượng và kim ngạch.
Xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm 2018
Thị trường | 6T/2018 | % tăng giảm so với cùng kỳ | ||
Lượng | Trị giá | Lượng | Trị giá | |
Tổng cộng | 3.483.331 | 1.768.627.867 | 21,6 | 38,9 |
Trung Quốc | 891.688 | 474.835.715 | -27,59 | -14,8 |
Indonesia | 685.908 | 322.006.083 | 4.397,76 | 5.914,67 |
Philippines | 384.146 | 183.462.035 | 43,54 | 76,8 |
Malaysia | 304.178 | 138.221.857 | 86,13 | 112,7 |
Iraq | 150.000 | 85.560.000 | 120,51 | 153,54 |
Ghana | 148.756 | 89.091.597 | -12,81 | 4,63 |
Bờ Biển Ngà | 111.320 | 66.396.323 | -12,87 | 16,35 |
Singapore | 42.188 | 23.558.285 | -2,99 | 8,75 |
Hồng Kông (Trung Quốc) | 39.029 | 22.406.169 | 31,08 | 48,89 |
U.A.E | 24.105 | 13.251.932 | 3,13 | 10,25 |
Đài Loan (Trung Quốc) | 10.708 | 5.452.711 | -21,25 | -13,29 |
Algeria | 10.325 | 4.590.173 | -61,29 | -55,91 |
Mỹ | 9.990 | 6.143.604 | -20,9 | -7,85 |
Nga | 6.041 | 2.648.683 | -66,29 | -61,45 |
Australia | 4.478 | 3.004.895 | -13,72 | 3,42 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 4.425 | 2.542.952 | 823,8 | 1,039,77 |
Bangladesh | 4.043 | 1.598.528 | -91,41 | -92,11 |
Angola | 2.394 | 1.191.293 | -81,81 | -75,93 |
Nam Phi | 1.871 | 1.083.491 | -56,67 | -41,98 |
Hà Lan | 1.523 | 837.394 | -37,63 | -23,26 |
Ba Lan | 1.326 | 765.507 | 109,48 | 140,93 |
Ukraine | 755 | 448.350 | -81,68 | -73,79 |
Pháp | 751 | 558.224 | 317,22 | 241,93 |
Tây Ban Nha | 474 | 246.068 | -8,14 | 14,58 |
Brunei | 323 | 139.352 | -97,08 | -96,82 |
Bỉ | 236 | 141.739 | -90,51 | -86,1 |
Chile | 188 | 145.883 | -95,46 | -91,06 |
Senegal | 47 | 33.493 | -99,65 | -99,26 |
(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Tổng cục Hải quan ghi nhận trong tháng 6 năm 2018, số lượng ô tô nguyên chiếc các loại đăng ký tờ khai hải quan nhập khẩu đạt 3.356 chiếc với trị giá hơn 82 triệu USD, tăng mạnh 45,6% về lượng và tăng 21,4% về trị giá so với tháng 5.
Sau khi tăng trưởng 20,2% trong quý I, xuất khẩu tôm trong quý II có chiều hướng giảm nhẹ.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm cả nước xuất khẩu 3,48 triệu tấn gạo, thu về gần 1,77 tỷ USD, tăng 21,6% về lượng và tăng 38,9% về kim ngạch so với 6 tháng đầu năm ngoái. Trong đó, riêng tháng 6/2018 đạt 537.948 tấn, trị giá 281,03 triệu USD, giảm 29,6% về lượng và giảm 28,2% về kim ngạch so với tháng 5/2018. Giá gạo xuất khẩu trung bình trong tháng 6/2018 đạt 522,4 USD/tấn, giá trung bình cả 6 tháng đạt 507,7 USD/tấn.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 6/2018 đạt 372 triệu USD, tăng 8,91% so với tháng trước đó và tăng 12,96% so với cùng tháng năm ngoái.
Xăng dầu luôn đứng đầu về kim ngạch, chiếm 32,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa các loại từ thị trường Malaysia, đạt trên 1,05 tỷ USD.
Số liệu từ Bộ NN&PTNT cho biết, trong nửa đầu năm 2018, nhập khẩu phân bón các loại đạt 2,43 triệu tấn, 790 triệu USD, tăng 1,2% về lượng và 21,8% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu hầu hết các loại hàng hóa từ Nhật Bản đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, nhóm hàng than đá tăng đột biến gấp 134 lần.
5 tháng đầu năm 2018 Việt Nam đã nhập siêu từ Đài Loan 4,09 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Những mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu tiếp tục là điện thoại các loại và linh kiện (22,5 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (13,45 tỷ USD), hàng dệt, may (13,42 tỷ USD), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (7,8 tỷ USD), giày dép các loại (7,79 tỷ USD).
Tuy chỉ đứng thứ hai về kim ngạch nhưng xuất khẩu mặt hàng hóa chất sang thị trường Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm nay tăng vượt trội.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự