Những nghiên cứu gần đây cho thấy người giàu chịu ảnh hưởng từ lạm phát nhiều hơn tầng lớp người nghèo…

Một trong những nguyên nhân khiến năng suất lao động của Việt Nam thấp là tiền lương, thu nhập, chế độ đãi ngộ đối với người lao động.
Tổ chức Năng suất châu Á đánh giá Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có năng suất lao động (NSLĐ) thấp nhất tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Theo đó, NSLĐ của Việt Nam chỉ bằng 1/15 Singapore, 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Đây đồng thời cũng là những nước có chỉ số năng lực cạnh tranh cao hơn Việt Nam (Singapore xếp thứ 2, Malaysia xếp thứ 20, Thái Lan xếp thứ 31 và Việt Nam xếp thứ 65 trên tổng số 144 nền kinh tế.
Trong tất cả các ngành nghề, NSLĐ của Việt Nam chỉ nhỉnh hơn của Lào, Campuchia và Myanmar một chút, về cơ bản thấp hơn tất cả các nước ASEAN. Nếu tính theo giá cố định, theo mức USD của năm 2015 quy đổi theo sức mua tương đương, thì mức NSLĐ của Việt Nam năm 2013 chỉ đạt 5.500 USD, cao hơn Lào ở mức 5.400 USD, Campuchia ở mức 4.000 và Myanmar 3.000. Trong khi đó: Singapore là 98.000 USD, Brunei đạt 101.000 USD, Philippines đạt 10.100 USD và Thái Lan là 14.800 USD.
NSLĐ thấp do tiền lương thấp?
Theo các chuyên gia, một trong những nguyên nhân khiến NSLĐ của Việt Nam thấp chính là tiền lương, thu nhập cũng như chế độ đãi ngộ đối với người lao động. Theo đánh giá, tiền lương và năng suất lao động là mối quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất trong một nền kinh tế, cũng là mối quan hệ giữa làm và ăn, cống hiến và hưởng thụ của người lao động trong một tập thể doanh nghiệp. Giữa tiền lương, thu nhập và NSLĐ có một điểm gắn kết như sợi dây ràng buộc, đó là quá trình lao động.
Vấn đề tăng NSLĐ trở thành động lực đối với người lao động khỉ khi họ đạt được mục tiêu của mình, trong đó mục tiêu hàng đầu là thu nhập. Đây là mục tiêu quan trọng nhất khiến người lao động làm việc, bởi vì thu nhập giúp người lao động trang trải cuộc sống của bản thân họ và gia đình, đảm bảo cho sự sống và phát triển.
Ông Cao Sỹ Kiêm - nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho rằng: “Để người lao động có động lực và tham gia vào quá trình tăng NSLĐ thì quan trọng là tiền lương. Họ có đủ sức tái tạo lao động, có động lực, có nhuệ khí thì họ mới làm, nếu không họ không làm hoặc chống đối.
Trong thời gian vừa qua, chúng ta có nhiều đối sách đúng đắn nhưng do triển khai chậm, không đáp ứng được với thực tiễn nên đôi khi nó cản trở, phản tác dụng, làm mất niềm tin của người lao động, dẫn đến động lực tăng NSLĐ của người lao động thấp xuống. Cho nên, chúng ta cần phải tăng lương thỏa đáng cho người lao động, tất nhiên chúng ta vẫn phụ thuộc vào sức khỏe của doanh nghiệp, của nền kinh tế, để xử lý hài hòa và chặt chẽ mối quan hệ này”.
Cũng theo ông Cao Sỹ Kiêm: Việc tăng NSLĐ ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ là khó khăn hơn cả, họ thiếu vốn và chất lượng lao động kém khiến phần lớn lao động được đào tạo theo kiểu truyền miệng, bắt tay chỉ việc; trong khi lao động theo tính chất kỹ thuật cao, hiện đại chưa có nhiều.
Giải quyết vòng luẩn quẩn: đãi ngộ và năng suất
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, đã là con người thì có năng lực như nhau, điều quan trọng là phát huy năng lực đó như thế nào thông qua chế độ đãi ngộ, đào tạo. Mấu chốt là người sử dụng lao động nhận thức về đối tượng đó như thế nào.
“Chúng ta nói rất nhiều đến ưu thế của Việt Nam, đó là có nguồn nhân lực lớn, trẻ, nhiều tiềm năng. Trong khi giới sử dụng lao động luôn luôn thực dụng, không chịu đầu tư nên dẫn đến năng suất thấp là điều đương nhiên. Điều gì dẫn đến lương thấp? Rõ ràng do người lao động đóng góp ít và ngược lại. Năng suất thấp lại kéo theo hệ quả chế độ đãi ngộ tương xứng, cứ luẩn quẩn như chuyện quả trứng và con gà vậy” – ông Dương Trung Quốc nói.
Ông Dương Trung Quốc khẳng định, Campuchia hay Myanmar ít nhiều có sự tương đồng với Việt Nam về điểm xuất phát. Tuy nhiên, nếu nhìn về cơ chế, những nước này sẽ bỏ xa chúng ta trong tương lai, nếu chúng ta không thay đổi tính thực dụng, thiếu tầm nhìn của giới sử dụng nhân lực hiện nay.
Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam sử dụng nhân lực rất giỏi, đem lại năng suất rất cao. Tuy nhiên chưa trở thành điểm chung, không trở thành chính sách của Nhà nước, không xây dựng thành hệ giá trị của xã hội.
“Như vậy vẫn con người ấy, đất nước này, nhiều doanh nghiệp, tổ chức sử dụng nhân lực rất giỏi, có trình độ rất cao, ngang thế giới. Song ở ta phổ biến vẫn là những doanh nghiệp lợi dụng khai thác lợi thế trước mắt, mà không nghĩ đến đầu tư lâu dài” – ông Dương Trung Quốc chia sẻ thêm.
Theo bà Sandra Polaski, Phó Tổng giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Nghiên cứu mới nhất về mối quan hệ giữa tiền lương và NSLĐ của chúng tôi cho thấy, tăng tiền lương tối thiểu khiến cho người sử dụng lao động tìm cách tăng NSLĐ thông qua đầu tư vào công nghệ, quy trình làm việc hiệu quả hơn.
Chúng tôi khảo sát những người sử dụng lao động ở khu vực ASEAN về chiến lược của họ để tăng sức cạnh tranh, đại đa số lựa chọn giải pháp đầu tư để tăng cường kỹ năng cho người lao động và áp dụng công nghệ mới, tăng năng suất lao động”.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy người giàu chịu ảnh hưởng từ lạm phát nhiều hơn tầng lớp người nghèo…
Chiếm 20% tổng chi ngân sách mỗi năm (tương đương 200 ngàn tỷ đồng), các khoản chi mua ô tô, trang thiết bị cho cơ quan nhà nước đang trở thành bài toán đau đầu với Bộ Tài chính. Nếu tổ chức mua sắm tập trung sẽ “gọt” bớt được khoảng 30 nghìn tỷ đồng/năm.
Hội nhập sâu rộng, niềm tin cải cách hay điểm đến mới của dòng chảy vốn đầu tư thế giới đã, đang là cơ hội và chìa khóa giúp Việt Nam có thể vươn lên, trở thành một trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới năm 2015.
Thủ tướng Chính phủ vừa chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, coi các chính sách xã hội là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài, liên tục từ đó chủ động đề ra các giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu bảo đảm tốt an sinh xã hội, chăm lo cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống cho người dân.
Trong lĩnh vực quản lý rủi ro có rất nhiều khía cạnh, nội dung chuyên môn nghiệp vụ mang tính kỹ thuật mà từng bước các cơ quan hải quan và cơ quan thuế đang nghiên cứu áp dụng để đưa vào thực tế công tác quản lý thuế của Việt Nam. Theo đó, hai ứng dụng theo phương pháp rủi ro trong quản lý thuế GTGT (VAT) của Italia được xem là trải nghiệm hiệu quả có thể vận dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Chi phí trả lương lái xe, hao mòn, sửa chữa, xăng dầu… trong một năm của mỗi ôtô công tương đương khoảng 320 triệu đồng, theo tính toán của Cục Quản lý Công sản (Bộ Tài chính).
Bài viết được đăng tải trên tờ Wall Street Journal mới đây nhận định, TPP có thể mang lại nhiều lợi ích cho ngành sản xuất Việt Nam. Bên cạnh đó cũng có những mặt trái như chi phí lao động tăng lên và áp lực sản xuất quy mô lớn hơn ở các nhà máy trong nước.
Ông Bùi Đức Thụ, ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội, cho biết như trên trong cuộc trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội ngày 21-10.
Mặc dù báo cáo Chính phủ cho thấy thu ngân sách năm 2016 sẽ tăng cao hơn dự toán năm 2015 gần 61.000 tỷ đồng song Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho biết, tình hình ngân sách năm tới vẫn rất căng thẳng vì áp lực chi. Trong khi đó, con số thực để phân bổ hiện vỏn vẹn còn 45.000 tỷ đồng!
Nhìn lại tình hình kinh tế xã hội sau 5 năm, dù không ít khó khăn, thách thức nhưng toàn Đảng toàn dân đã đồng lòng, đồng sức tìm mọi cách vượt qua khó khăn, có các biện pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả đưa nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng suy yếu, đạt được nhiều chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm 2010- 2015.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự