Xuất khẩu hạt tiêu năm 2018 chưa đạt được so với kỳ vọng khi giá cả và kim ngạch đều giảm so với năm 2017 – đây là năm thứ hai sụt giảm liên tiếp. Nguyên nhân chủ yếu do lượng cung vượt quá cầu.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu thủy sản sau khi tăng liên tục trong tháng 10, 11/2018 thì đến tháng cuối năm 2018 sụt giảm 1,6%, đạt 154,8 triệu USD. Tính chung cả năm 2018, kim ngạch vẫn tăng 19,6% so với năm 2017, đạt 1,72 tỷ USD.
Nhìn chung các thị trường hàng đầu cung cấp thủy sản cho Việt Nam đều tăng kim ngạch so với năm 2017, duy có thị trường Ấn Độ - thị trường lớn nhất lại sụt giảm nhẹ 3,6% về kim ngạch, đạt 344,59 triệu USD, chiếm 20% trong tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản của cả nước. Riêng tháng cuối năm 2018, nhập khẩu từ thị trường này cũng giảm 9,2% so với tháng 11/2018 và giảm 21,7% so với tháng cuối năm 2017, đạt 23 triệu USD.
Đối với thủy sản nhập khẩu từ Na Uy – thị trường lớn thứ 2, năm 2018 tăng rất mạnh 46,2% so với năm 2017, đạt 178,64 triệu USD, chiếm 10,4%.
Nhập khẩu thủy sản từ các nước Đông Nam Á nói chung tăng mạnh 59,3%, đạt 151,4 triệu USD, chiếm 8,8%.
Ngoài ra, có thêm 3 thị trường cũng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD đó là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Trong đó, nhập khẩu từ Trung Quốc 124,09 triệu USD, chiếm 7,2%, tăng 10,5%; nhập khẩu từ Nhật Bản 108,44 triệu USD, chiếm 6,3%, tăng 29,3%; nhập khẩu từ thị trường Đài Loan 105,05 triệu USD, chiếm 6,1%, tăng 1,9%..
Trong năm 2018, chỉ có 4 thị trường nhập khẩu thủy sản giảm kim ngạch so với năm 2017, đó là Đan Mạch giảm 20,6%, đạt 15,93 triệu USD; Ba Lan giảm 17,5%, đạt 8,54 triệu USD; Myanmar giảm 17,4%; đạt 3,16 triệu USD; Án Độ giảm 3,6%, đạt 344,59 triệu USD.
Còn lại các thị trường đều tăng kim ngạch so với năm 2017, đáng chú ý là nhập khẩu thủy sản từ khu vực Đông Nam Á tăng mạnh nhất; Cụ thể, nhập từ thị trường Malaysia tăng 94,7%, đạt 7,7 triệu USD; từ Philippines tăng 65,1%, đạt 10,23 triệu USD. Indonesia tăng 82%, đạt 95,91triệu USD. Ngoài ra, nhập khẩu thủy sản từ Canada cũng tăng tương đối mạnh 69,9% so với năm 2017, đạt 42,47 triệu USD.
Nhập khẩu thủy sản năm 2018
ĐVT: USD
Thị trường | T12/2018 | +/- so với tháng 11/2018 (%)* | +/- so với tháng 12/2017 (%) * | Năm 2018 | +/- so với năm 2017 (%)* |
Tổng kim ngạch NK | 154.801.289 | -1,55 | 9,47 | 1.722.538.275 | 19,63 |
Ấn Độ | 23.000.460 | -9,21 | -21,69 | 344.592.892 | -3,57 |
Na Uy | 19.530.168 | 31,14 | 20,94 | 178.635.392 | 46,21 |
Đông Nam Á | 15.391.850 | 19,09 | 55,42 | 151.402.525 | 59,32 |
Trung Quốc | 14.160.519 | 13,87 | 58,97 | 124.088.986 | 10,45 |
Nhật Bản | 9.718.342 | 4,2 | 13,61 | 108.436.254 | 29,26 |
Đài Loan(TQ) | 8.169.096 | 31,16 | -12,98 | 105.053.431 | 1,9 |
Indonesia | 10.222.044 | 21,12 | 46,17 | 95.913.258 | 82,01 |
Nga | 10.400.796 | -12,79 | 12,77 | 91.814.170 | 27,04 |
Hàn Quốc | 4.332.796 | -51,06 | 6,97 | 76.393.069 | 42,52 |
Mỹ | 8.420.975 | -2,04 | 60,05 | 66.545.272 | 42 |
Chile | 5.709.568 | -8,12 | -41,61 | 64.580.744 | 21,15 |
EU | 3.732.610 | -8,93 | -19,75 | 43.162.706 | -3,68 |
Canada | 1.478.020 | 11,22 | 27,22 | 42.472.082 | 69,91 |
Thái Lan | 3.257.043 | 30,33 | 183,16 | 22.717.121 | 17,33 |
Anh | 1.581.118 | -19,99 | -4,75 | 18.701.178 | 29,81 |
Đan Mạch | 1.111.980 | 27,41 | -45,99 | 15.926.028 | 20,59 |
Singapore | 383.128 | -52,72 | -22,45 | 11.675.880 | 29,87 |
Philippines | 458.541 | -20,25 | -31,21 | 10.234.673 | 65,14 |
Ba Lan | 1.039.512 | -16,83 | 11,5 | 8.535.500 | -17,52 |
Malaysia | 743.208 | 57,17 | 100,23 | 7.697.769 | 94,67 |
Myanmar | 327.886 | 155,18 | 43,76 | 3.163.824 | -17,41 |
(*Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Xuất khẩu hạt tiêu năm 2018 chưa đạt được so với kỳ vọng khi giá cả và kim ngạch đều giảm so với năm 2017 – đây là năm thứ hai sụt giảm liên tiếp. Nguyên nhân chủ yếu do lượng cung vượt quá cầu.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; và nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tiếp tục là 2 nhóm hàng nhập khẩu đạt được kim ngạch “tỷ USD” đầu tiên trong năm 2019.
Năm 2018 tiếp tục ghi nhận kết quả ấn tượng của hoạt động xuất nhập khẩu với tốc độ tăng trưởng 2 con số đưa quy mô kim ngạch của Việt Nam lên 480,017 tỷ USD- cao nhất từ trước đến nay. Đóng góp quan trọng vào kết quả này là những thị trường, ngành hàng chủ lực với kim ngạch từ 10 tỷ USD trở lên.
Châu Á đang trải qua một cuộc đua về xuất khẩu gạo khi các nhà sản xuất lớn như Ấn Độ và Việt Nam tăng cường nỗ lực thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu gạo ra nước ngoài để hỗ trợ nông dân, khuyến khích đẩy mạnh sản xuất. Nhưng sự cạnh tranh này có thể làm giảm giá cả toàn cầu, và có thể gây hiệu ứng ngược lại.
Năm 2019, các DN thủy sản sẽ có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản do hưởng lợi thuế quan khi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã chính thức có hiệu lực với Việt Nam.
Xuất khẩu gạo sang thị trường Trung Quốc mặc dù giảm mạnh 41,8% về lượng và giảm 33,4% về kim ngạch so với năm 2017, nhưng vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam.
Các thành viên CPTPP thống nhất giữ nguyên các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa của TPP trong khuôn khổ Hiệp định, xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình.
Kết thúc năm 2018, xuất khẩu điều không khả quan trong khi lượng tăng nhưng kim ngạch sụt giảm. Sang năm năm 2019 , dự báo giá điều nhân sẽ tiếp tục trầm lắng cho đến tháng 3 – 4/2019 khi các nhà rang chiên bắt đầu hợp đồng mua hàng.
23 sản phẩm thép có xuất xứ từ các nước, bao gồm cả Việt Nam, sẽ chính thức bị áp hạn ngạch tới khoảng giữa năm 2021 khi xuất vào EU.
Trung Quốc, Hàn Quốc là những thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam trong năm 2018 theo thông tin vừa được Tổng cục Hải quan công bố.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự