Trái phiếu DN phát triển có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị trường vốn và giúp giảm sức ép vốn đối với hệ thống NH.

Việc Nhật Bản gia tăng sự đầu tư vào Việt Nam sẽ giúp Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh trên các lĩnh vực đòi hỏi tay nghề và trình độ cao như cơ khí, chế tạo, điện tử…
Nhật Bản xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu nhóm hàng công nghiệp như máy móc thiết bị, máy vi tính sản phẩm điện tử, sắt thép, linh kiện phụ tùng ô tô…. trong đó nổi bật lên là hàng máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác, mặt hàng này chiếm 28,8% tổng kim ngạch, với 1,2 tỷ USD, nhưng so với cùng kỳ 2015 giảm 27%. Đứng thứ hai về kim ngạch là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, tuy kim ngạch chỉ đạt 768,9 triệu USD, nhưng tăng 5,37%, kế đến là sắt thép, giảm 6,46%, tương ứng với 380,7 triệu USD…
Nhìn chung, 4 tháng đầu năm nay, các doanh nghiệp Nhật Bản xuất khẩu sang Việt Nam phần lớn các mặt hàng đều với tốc độ tăng trưởng dương, số mặt hàng này chiếm 58,9%, trong đó xuất khẩu hàng sữa và sản phẩm tăng mạnh vượt trội, tăng 178,57%, tuy kim ngạch chỉ đạt trên 4 triệu USD, ngoài ra tốc độ xuất khẩu một số mặt hàng với tốc độ tăng trưởng khả như: thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 126,08%, dược phẩm tăng 62,02% và chất thơm mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh tăng 51,87%. Ngược lại, xuất khẩu các mặt hàng với tốc độ tăng trưởng âm chỉ chiếm 41%, trong đó xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện giảm mạnh nhất, giảm 58,7%, mặc dù kim ngạch đạt tới 12 triệu USD.
Thống kê sơ bộ của TCHQ về tình hình nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản 4 tháng 2016
ĐVT: USD
Mặt hàng | 4 tháng 2016 | 4 tháng 2015 | So sánh +/- (%) |
Tổng cộng | 4.373.930.508 | 4.784.701.518 | -8,59 |
máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác | 1.260.282.942 | 1.726.328.992 | -27,00 |
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 768.960.604 | 729.766.159 | 5,37 |
sắt thép các loại | 380.710.046 | 406.999.415 | -6,46 |
linh kiện, phụ tùng ô tô | 221.959.120 | 197.650.274 | 12,30 |
sản phẩm từ chất dẻo | 191.937.981 | 195.926.659 | -2,04 |
vải các loại | 176.406.898 | 165.104.382 | 6,85 |
phế liệu sắt thép | 142.236.857 | 105.401.777 | 34,95 |
sản phẩm từ sắt thép | 132.241.380 | 183.315.185 | -27,86 |
ô tô nguyên chiếc các loại | 105.076.790 | 89.281.732 | 17,69 |
hóa chất | 95.493.112 | 83.663.429 | 14,14 |
chất dẻo nguyên liệu | 93.931.997 | 91.089.800 | 3,12 |
sản phẩm hóa chất | 86.584.440 | 78.975.387 | 9,63 |
kim loại thường khác | 72.544.802 | 80.850.849 | -10,27 |
nguyên phụ liệu dệt, may, da giày | 59.769.677 | 64.572.996 | -7,44 |
phương tiện vận tải khác và phụ tùng | 51.061.712 | 39.043.842 | 30,78 |
giấy các loại | 41.609.695 | 35.566.187 | 16,99 |
sản phẩm từ cao su | 36.329.514 | 33.534.094 | 8,34 |
dây điện và dây cáp điện | 33.262.570 | 32.361.857 | 2,78 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh | 31.526.233 | 35.944.222 | -12,29 |
cao su | 29.339.697 | 33.784.501 | -13,16 |
sản phẩm từ kim loại thường khác | 26.819.927 | 25.171.081 | 6,55 |
Hàng thuỷ sản | 19.702.544 | 22.051.966 | -10,65 |
xơ, sợi dệt các loại | 15.368.837 | 13.419.433 | 14,53 |
thuốc trừ sâu và nguyên liệu | 13.690.215 | 13.738.620 | -0,35 |
máy ảnh, máy quay phim và linh kiện | 13.674.801 | 15.201.984 | -10,05 |
sản phẩm từ giấy | 13.204.408 | 11.985.618 | 10,17 |
điện thoại các loại và linh kiện | 12.004.355 | 29.068.963 | -58,70 |
phân bón các loại | 11.721.636 | 13.060.222 | -10,25 |
Sản phẩm khác từ dầu mỏ | 11.241.903 | 9.620.127 | 16,86 |
Dược phẩm | 10.306.881 | 6.361.636 | 62,02 |
Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh | 8.487.027 | 5.588.333 | 51,87 |
nguyên phụ liệu thuốc lá | 8.484.552 | 9.970.725 | -14,91 |
đá quý kim l oại và sản phẩm | 8.342.371 | 11.102.352 | -24,86 |
chế phẩm thực phẩm khác | 4.699.308 | 3.697.716 | 27,09 |
hàng điện gia dụng và linh kiện | 4.129.553 | 3.909.044 | 5,64 |
sữa và sản phẩm | 4.027.513 | 1.445.769 | 178,57 |
gỗ và sản phẩm gỗ | 2.104.675 | 1.600.715 | 31,48 |
quặng và khoáng sản khác | 1.952.948 | 3.362.098 | -41,91 |
thức ăn gia súc và nguyên liệu | 1.703.274 | 753.406 | 126,08 |
Theo nguồn tin từ Baodautu.vn, được biết, cuộc thăm dò do Viện nghiên cứu Mizuho thực hiện mới đây với 1.100 công ty Nhật Bản có vốn trên 10 triệu yên cho thấy, 43,8% số công ty cho rằng, Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là khu vực được dành ưu tiên đầu tư trong tương lai. So với cuộc thăm dò tiến hành vào năm 2015, tỷ lệ chọn ASEAN tăng 2,3% và ASEAN đứng đầu bảng trong 4 năm liên tiếp.
Đặc biệt, mối quan tâm đến Việt Nam được thể hiện rất rõ. Trả lời câu hỏi về kế hoạch tập trung kinh doanh ở nước nào trong ASEAN, có tới 53,5% số công ty được hỏi chọn Việt Nam, tăng 4,9% so với năm ngoái, thể hiện mức tăng rõ rệt về độ quan tâm đối với Việt Nam. Trong khi đó, 59,7% số công ty chọn Thái Lan, giảm 2,2% so với năm ngoái.
Liên quan kế hoạch mở rộng đầu tư trong 12 quốc gia ký kết TPP, có 12,8% số công ty được hỏi chọn Việt Nam; 10,7% chọn Nhật Bản và 4,9% chọn Mỹ.
Một cuộc khảo sát khác do Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) thực hiện đầu năm 2016 cũng cho thấy, hơn 60% doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam có kế hoạch mở rộng kinh doanh tại Việt Nam và tiếp tục coi đây là địa điểm đầu tư quan trọng. Trong đó, 85% doanh nghiệp cho biết, lý do chính để mở rộng kinh doanh là “tăng doanh thu”. Trong ngành công nghiệp phi chế tạo, 65% số nhà đầu tư cho biết, lý do chính là “khả năng tăng trưởng và tiềm năng cao”.
Mặt khác, lợi thế về môi trường đầu tư cũng là một trong những nhân tố hấp dẫn doanh nghiệp Nhật Bản. Việt Nam vẫn duy trì được vị trí thứ 3 (57,7%) trong số 15 quốc gia được cho là “có chi phí nhân công rẻ”. Ngoài ra, tình hình chính trị, xã hội ổn định, quy mô thị trường, khả năng tăng trưởng cũng được đa số doanh nghiệp Nhật Bản đồng tình.
Khảo sát của JETRO cũng chỉ ra rằng, các doanh nghiệp Nhật Bản kỳ vọng rất lớn vào việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), với việc đơn giản hóa các thủ tục hải quan, dỡ bỏ thuế nhập khẩu, thống nhất trong việc vận dụng quy tắc xuất xứ.
Cuộc khảo sát của JETRO được thực hiện với 1.027 doanh nghiệp Nhật Bản, trong đó có 557 doanh nghiệp đưa ra câu trả lời hợp lệ, đạt tỷ lệ 54,2%. Trong số đó, có 364 doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo và 193 doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phi chế tạo - dịch vụ tại Việt Nam.
Khảo sát trên cũng cho thấy, số doanh nghiệp trả lời hoạt động có lãi tại Việt Nam là 58,8%, giảm 3,5%; số doanh nghiệp hoạt động lỗ là 26,2%, tăng 1,3% so năm trước. Nếu xét riêng doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư trong ngành công nghiệp chế biến - chế tạo thì tỷ lệ hoạt động có lãi là 56%...
Các kết quả khảo sát cho thấy, Việt Nam đã, đang và vẫn sẽ là quốc gia nhận được sự ưu ái và tin cậy của các nhà đầu tư Nhật Bản. Việc Nhật Bản gia tăng sự đầu tư vào Việt Nam sẽ giúp Việt Nam gia tăng sức cạnh tranh trên các lĩnh vực đòi hỏi tay nghề và trình độ cao như cơ khí, chế tạo, điện tử…
Nguồn: VITIC/Vinanet
Trái phiếu DN phát triển có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị trường vốn và giúp giảm sức ép vốn đối với hệ thống NH.
NHNN muốn kiểm soát chặt chẽ hơn tình hình lãi suất NH, tránh những biến động không đáng có. Trên cơ sở đó NHNN đưa ra điều chỉnh cho phù hợp để đạt được mục tiêu của Chính phủ.
Về lý thuyết, có một số cách có thể làm giảm những lo ngại từ việc huy động vốn thông qua phát hành nợ. Thứ nhất là giảm chi phí đi vay. Thứ hai là trả hết nợ. Thứ ba là phát triển theo hướng không phụ thuộc vào các khoản nợ. Và thứ tư là xóa nợ.
Sẽ không có gì là đáng ngạc nhiên nếu bà Yellen một lần nữa giữ nguyên tỉ lệ lãi suất tại cuộc họp vào ngày 14/6.
Liệu người dân Việt Nam có nắm giữ gần 500 tấn vàng hay không và quan trọng nhất là ai sẽ được hưởng lợi từ số vàng được huy động?
Trích dẫn ý kiến của các chuyên gia cho rằng, nợ công nước ta thực tế có thể đã vượt quá 100%, BIDV đề xuất một mô hình mới trong việc tổ chức vận động, thu hút và quản lý các dự án vay vốn nước ngoài.
Nhà đầu tư (NĐT) trong nước quá hào hứng với PPP trong khi chính bản thân họ chưa lường hết các rủi ro tương lai. Trong khi đó ở trạng thái ngược lại, NĐT nước ngoài dù được kỳ vọng sẽ mạnh tay đầu tư vào PPP, thì thời gian qua lại hết sức dè dặt.
Ngân hàng muốn giữ tiền lại để tăng vốn, Bộ Tài chính muốn Chính phủ thu lãi để bù ngân sách đang thâm hụt. Vấn đề đặt ra ở đây là cổ đông sẽ quyết định việc này?
Sự nới lỏng tiền tệ không chỉ là những tín hiệu chấp chới từ xa, mà đã hiện hữu trên thị trường từ khoảng một vài tuần nay. Tiền đang rẻ hơn và đang chảy nhiều hơn.
Những công cụ can thiệp để của các NHTW để đối phó với tình trạng khủng hoảng đang bị hạn chế một cách nghiêm trọng khi mà mặt bằng lãi suất hay các công cụ nới lỏng định lượng – định tính đều đã được sử dụng một cách gần như tối đa.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự