Một nghịch lý đang tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam là những ngành có năng suất lao động thấp nhất hiện cũng là ngành phân bổ nhiều nguồn lực nhất bao gồm: bất động sản, tài chính ngân hàng hay xây dựng...

Một báo cáo mới của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho biết các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong khu vực, bao gồm Việt Nam cần nguồn tài chính để tăng trưởng và trở thành những công ty năng động và có sức cạnh tranh quốc tế.
Ông Noritaka Akamatsu, Cố vấn cao cấp của Vụ Phát triển Bền vững và Biến đổi khí hậu thuộc ADB, đơn vị soạn thảo báo cáo cho hay châu Á có hàng triệu doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng chỉ một số ít trong số họ có thể phát triển đến một mức độ có thể tạo ra đổi mới hoặc một phần của chuỗi giá trị toàn cầu. Để làm được điều đó, họ cần thêm vốn phát triển và thêm cơ hội tiếp cận với các kênh hỗ trợ tài chính khác nhau.
Tính đến cuối năm 2013, Việt Nam có tổng cộng 359.794 doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), chiếm 96% tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. Hầu hết các doanh nghiệp đều thuộc sở hữu tư nhân (97%) trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 2,7% và số còn lại là thuộc sở hữu nhà nước.Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ lệ 40% tổng số các doanh nghiệp MSMEs đang hoạt động, tiếp sau đó là ngành dịch vụ và công nghiệp chế tạo. Khoảng 5,1 triệu lao động được các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa tuyển dụng, chiếm 47% lực lượng lao động của Việt Nam, báo cáo này cho biết.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung đang thiếu sức cạnh tranh để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Hội nhập khu vực và tự do hóa thương mại có nghĩa các doanh nghiệp cần phải chuyển từ việc chú trọng thị trường trong nước sang việc chú trọng hơn đến các mục tiêu toàn cầu. Điều này vừa đem lại cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ khai phá các thị trường nước ngoài, vừa đặt họ trước sự cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Theo ADB, các chính phủ trong khu vực cần hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trở nên cạnh tranh hơn và có thể tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Trong số các hỗ trợ đó có việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ hơn với các hỗ trợ tài chính mới, chẳng hạn như hỗ trợ tài chính chuỗi cung ứng.
Khả năng tiếp cận hạn chế với tín dụng ngân hàng là một vấn đề còn tồn tại ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương. Tỷ lệ cho vay dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã giảm xuống trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và năm 2014, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ nhận được 18,7% trong tổng số các khoản cho vay của ngân hàng.
Một số quốc gia đã có tiến bộ trong việc giải quyết vấn đề này. Indonesia và Philippines đã đưa ra hạn mức cho vay bắt buộc của các ngân hàng dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Mông Cổ đã khuyến khích các chương trình cho vay tái cấp vốn. Tuy nhiên, báo cáo cho rằng khu vực cần phải phát triển hơn nữa các tổ chức tín dụng, các cơ sở dữ liệu tài sản thế chấp và các chương trình bảo lãnh tín dụng để mở rộng phạm vi tài chính, đặc biệt là tại các nước có thu nhập thấp.
Lĩnh vực tài chính phi ngân hàng, điển hình là những các công ty tài chính, các hãng cho thuê tài chính đối với máy móc và thiết bị trong khu vực vẫn còn quá nhỏ để đáp ứng nhu cầu tài trợ vốn của các doanh nghiệp, với tổng giá trị các khoản cho vay dạng này chỉ bằng một phần mười tổng giá trị dư nợ các khoản vay ngân hàng.
Các chính phủ cần tạo dựng một khung chính sách toàn diện để hỗ trợ các tổ chức tài chính phi ngân hàng mở rộng các lựa chọn tài trợ vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của họ. Các nỗ lực đang được thực hiện để mở cửa các thị trường cổ phiếu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng có thể giúp các doanh nghiệp này có được nguồn tài trợ dài hạn mà họ cần để trưởng thành.
Một nghịch lý đang tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam là những ngành có năng suất lao động thấp nhất hiện cũng là ngành phân bổ nhiều nguồn lực nhất bao gồm: bất động sản, tài chính ngân hàng hay xây dựng...
Để có một hệ thống DN đủ sức vươn ra thị trường thế giới, cần có kế hoạch xây dựng 1 triệu DN trong 5 năm tới theo khuyến nghị của GS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh tác động tiêu cực, sự sụt giảm của giá dầu thô cũng mang đến những lợi ích trước mắt cho người dân và doanh nghiệp.
Không phải toàn bộ chi phí lãi vay của doanh nghiệp (DN) đều được khấu trừ mà tới đây sẽ bị khống chế theo một tỉ lệ nhất định so với vốn chủ sở hữu trước khi tính thuế thu nhập DN.
Tôi tán thành những ý kiến và khuyến nghị đã được các chuyên gia của VCCI nghiên cứu và phân tích rõ ràng, xác đáng trong tài liệu về vấn đề lao động trong đàm phán TPP. Tham gia TPP chắc chắn sẽ có những thách thức và cơ hội mới về lao động cho DN nước ta.
Các bộ lo lắng không có quy hoạch sản phẩm cụ thể thì sẽ không quản được, hậu quả nhãn tiền là nông dân trồng nhiều nông sản, đến lúc phải đổ bỏ...
Nhiều trường hợp doanh nghiệp nộp thuế xong, số tiền còn lại cũng không đủ để trả ngân hàng...
Để có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”, GS Nguyễn Mại cho rằng, câu chuyện này phải bắt đầu từ giáo dục, làm sao đào tạo ra được một thế hệ thanh niên có ý chí, có nền tảng và phương pháp làm việc tốt. Việt Nam cũng cần học hỏi các nước đã thành công trên thế giới để tìm hướng đi cho mình.
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc “Đổi mới”: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với sự đổi mới trên, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nếu như trước đổi mới GDP tăng chưa đầy 4% thì sau đổi mới, có những năm GDP tăng đến 8-9%. Trung bình từ 1986 đến nay, GDP tăng trưởng liên tục, bình quân ở mức 6,6% năm…
Đơn giá áp dụng làm dự toán xây dựng tại các công trình do nhà nước đầu tư như: chung cư, trường học, bệnh viện, trụ sở hành chính... do Bộ Xây dựng ban hành cao hơn rất nhiều so với giá thực tế.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự