tin kinh te
 
 
 
rss - tinkinhte.com

Tin kinh tế đọc nhanh trưa 05-10-2017

  • Cập nhật : 05/10/2017

Gần 18 triệu lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội

Cả nước có 18 triệu người (chiếm 57% tổng số lao động) đang làm việc mùa vụ, ngắn hạn, hầu hết không được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội. 

Gần 18 triệu lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội

Lao động phi chính thức không có quyền lợi bảo hiểm xã hội. Ảnh minh họa: Ngọc Thành

Ngày 4/10, lần đầu tiên Tổng cục Thống kê công bố khảo sát về lao động phi chính thức. Theo bà Nguyễn Thị Xuân Mai - Vụ trưởng Vụ Dân số và Lao động (Tổng cục thống kê), lực lượng lao động phi chính thức (làm việc mùa vụ, tự do, ngắn hạn) tăng từ 16,8 triệu người năm 2014 lên 18 triệu người năm 2016 (chiếm 57% tổng số lao động).

Phần lớn lao động phi chính thức tập trung ở nông thôn, nơi có nhiều làng nghề truyền thống, các hộ kinh doanh cá thể. Tiền lương bình quân của  những người này là 3,9 triệu đồng mỗi tháng, trong khi lao động có hợp đồng là 6,7 triệu đồng. 

Hầu hết lao động phi chính thức không được đóng bảo hiểm xã hội (chiếm 97%), đóng bảo hiểm tự nguyện đạt 1,9%.

Theo bà Mai, 76% lao động phi chính thức làm việc mà không có bất cứ một hợp đồng lao động bằng văn bản liên quan đến công việc đang làm. Cụ thể, 62% lao động phi chính thức chỉ thỏa thuận miệng với chủ lao động, 14% không có bất cứ một thỏa thuận nào. 

Ông Đào Quang Vinh - Viện trưởng Khoa học lao động xã hội, cho biết thêm không chỉ lao động tự do, mà nhiều lao động có hợp đồng ngắn hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức chính thức cũng không được đóng bảo hiểm xã hội 

"Nhóm yếu thế chất lượng lao động thấp, làm công việc giản đơn như chế biến, chế tạo, sửa chữa... có thu nhập thấp và không được ký kết hợp đồng để đảm bảo an sinh, đòi hỏi Nhà nước có biện pháp", ông Vinh nói. (Vnexpress)
--------------------------

Tín hiệu tích cực xử lý nợ xấu

Việc Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) vừa mạnh tay mua đứt cả chục ngàn tỉ đồng nợ xấu đã tạo được sự lạc quan trong xử lý nợ xấu vốn ì ạch lâu nay

Khi bán đứt được nợ xấu, các ngân hàng (NH) thu hồi được vốn, giảm thiểu chi phí hoạt động, góp phần ổn định lãi suất.

Ngân hàng sớm thu hồi vốn

Động thái mới nhất là Sacombank vừa ký hợp đồng bán 2.850 tỉ đồng nợ xấu từ 3 khoản nợ của 3 doanh nghiệp (DN) cho VAMC. Các khoản nợ này đều có tài sản thế chấp là bất động sản, máy móc thiết bị có giá trị tại Đà Nẵng và TP HCM. Theo đó, 2 khoản nợ của nhóm Công ty Hoàn Cầu (bao gồm Công ty CP Hoàn Cầu Khánh Hòa và Công ty TNHH Hoàn Cầu Nha Trang) có giá trị hơn 2.577 tỉ đồng, trong đó nợ gốc là 2.400 tỉ đồng, lãi phát sinh và phí hơn 177 tỉ đồng.

Đây là giá trị khoản vay (số tiền cho vay cộng với lãi và phí phát sinh) mà hơn 7 năm trước nhóm Công ty Hoàn Cầu đã vay tại Sacombank với tài sản thế chấp là 8 lô đất có tổng diện tích hơn 51.000 m2 tọa lạc phường Tân Thuận Tây và phường Bình Thuận (quận 7, TP HCM). Lúc đó, Sacombank định giá các tài sản thế chấp này là 2.418 tỉ đồng.

Tín hiệu tích cực xử lý nợ xấu - Ảnh 1.

Dự án cao ốc Sài Gòn M&C vừa bị VAMC thu giữ, bán đấu giá để thu hồi nợ xấu Ảnh: Tấn Thạnh

Ông Dương Công Minh, Chủ tịch HĐQT Sacombank, nhìn nhận điểm khác biệt của việc bán nợ cho VAMC lần này là các NH nhanh chóng thu hồi vốn, tăng thêm năng lực tài chính. Còn VAMC có lãi mới quyết định mua nợ. "Việc VAMC mua nợ theo giá thị trường và hỗ trợ xử lý nợ xấu sẽ giúp các NH cơ bản giải quyết mục tiêu giảm tỉ lệ nợ xấu. Riêng Sacombank phấn đấu từ nay đến cuối năm giảm 15.000-20.000 tỉ đồng nợ xấu, rà soát các khoản nợ để tiếp tục bán đứt cho VAMC 1.000 tỉ đồng. Có lẽ, vì thế 2017 được xem là năm bản lề xử lý nợ xấu, tạo tiền đề cho Sacombank và các NH khác giảm nhanh tỉ lệ nợ xấu" - ông Minh nói .

Trong khi đó, ông Võ Văn Châu, Tổng Giám đốc NH TMCP Kiên Long (Kielongbank), cho biết ngân hàng này đang rà soát phân loại nhiều khoản nợ xấu, trong đó sẽ bán đứt cho VAMC phần không nhỏ.

Nhiều NH cho rằng trước mắt, với các khoản nợ xấu mua đứt, VAMC đều thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt bởi số vốn của tổ chức này hiện chỉ có 2.000 tỉ đồng. Như thế, VAMC đã gián tiếp thanh toán tiền mua nợ xấu thông qua trái phiếu đặc biệt và đến một lúc nào đó, tổ chức này bán được tài sản thế chấp sẽ thanh toán bằng tiền "tươi" và NH trả lại trái phiếu đặc biệt cho VAMC.

Cách đây 1 tháng, VAMC cũng ký hợp đồng mua nợ với 2 NH đối với khoản nợ của Công ty Sài Gòn One Tower, Công ty Liên Phát, Công ty Minh Quân, Công ty Superdeck M&C với tổng dư nợ (gốc và lãi) trên 7.000 tỉ đồng. Đồng thời, VAMC cho biết đang thành lập hội đồng thẩm định giá, xác định giá khởi điểm để tiến hành bán đấu giá công khai dự án này trong thời gian tới. Riêng 8 lô đất là tài sản thế chấp của nhóm Công ty Hoàn Cầu, VAMC đã thông báo tìm kiếm đơn vị thẩm định giá để chuẩn bị tổ chức đấu giá các tài sản này.

Hình thành thị trường giao dịch

Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó Giám đốc NH Nhà nước Chi nhánh TP HCM, nhận định nhiều năm qua, các NH thương mại đã hết sức nỗ lực nhưng việc xử lý nợ xấu vẫn hết sức gian nan vì có quá nhiều vướng mắc về thủ tục khi xử lý thông qua tòa án. Thậm chí, nhiều khoản nợ kéo dài 20 năm vẫn chưa giải quyết xong, như các khoản nợ liên quan đến vụ án Epco - Minh Phụng. Mặt khác, do việc bán nợ xấu cho VAMC dưới dạng sổ sách, mỗi năm NH vẫn phải dùng lợi nhuận để trích lập 10%-20% phòng trừ rủi ro nên việc xử lý nợ xấu chưa ổn.

Tuy nhiên, gần đây, Nghị quyết 42/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 15-8, cho phép VAMC mua đứt nợ xấu theo giá thị trường. Khi đó, VAMC trở thành chủ nợ, tiếp tục thỏa thuận với con nợ về các điều kiện xử lý tài sản, tìm kiếm đối tác mua tài sản thông qua hình thức đấu giá. Từ đó, nợ xấu bắt đầu được xử lý theo hướng thuận mua vừa bán. Đặc biệt, Nghị quyết 42 quy định việc bán tài sản thế chấp phải thực hiện bằng hình thức đấu giá công khai, không hạn chế tổ chức, cá nhân tham gia... đang từng bước hình thành thị trường mua - bán nợ.

Ông Nguyễn Tiến Đông, Chủ tịch HĐTV VAMC, cho biết Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có chỉ thị giao cho VAMC nhiệm vụ đặc thù chuyên trách xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42. Do đó, trước mắt, VAMC sẽ phối hợp hỗ trợ tối đa với 6 NH (ACB, Sacombank, BIDV, Vietcombank, VietinBank, Agribank) vừa được NH Nhà nước chọn lựa thí điểm triển khai Nghị quyết 42 để xử lý nhanh nợ xấu của hệ thống NH .

"Năm 2018, VAMC sẽ tăng vốn điều lệ từ 2.000 tỉ đồng lên 5.000 tỉ đống và đến năm 2010 tăng lên 10.000 tỉ đồng. Tuy số vốn này không lớn so với 10 tỉ USD nợ xấu mà VAMC đang quản lý nhưng với nguồn lực này cùng với chức năng nhiệm vụ được giao là thực hiện Nghị quyết 42, sự hỗ trợ của các bộ ngành, chính quyền các đại phương sẽ làm cho việc xử lý nợ xấu chuyển biến tích cực" - ông Đông kỳ vọng.

Đẩy nhanh việc xử lý

Lãnh đạo nhiều NH đánh giá với tư cách chủ nợ và trên cơ sở Nghị quyết 42, VAMC có thể đề xuất các cơ quan quản lý tháo gỡ những vướng mắc về pháp lý, định giá tài sản thế chấp, trình tự thủ tục hành chính… khi khởi kiện con nợ thông qua tòa án, từ đó có thể giải quyết nhiều nút thắc nợ xấu, đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ, sớm thu hồi vốn, tăng năng lực tài chính cho hệ thống NH.

Theo giới phân tích, sau khi bán đứt nợ xấu cho VAMC bằng trái phiếu đặc biệt, NH gần như đã thu hồi được vốn vì trái phiếu đặc biệt có thể chuyển hóa thành tiền bất cứ lúc nào.

Giả sử, VAMC mua đứt khoản nợ 100 tỉ đồng bằng trái phiếu đặc biệt từ một NH thì NH đó không còn dùng lợi nhuận để trích lập dự phòng 10-20 tỉ đồng/năm, bởi khoản nợ xấu đã được đã hạch toán. Mặt khác, trong thời gian chờ VAMC bán được tài sản thế chấp, NH có thể thế chấp 100 tỉ đồng trái phiếu đặc biệt cho NH nhà nước để vay tiền, giảm áp lực huy động vốn từ dân cư, chi phí hoạt động… Nhờ vậy, tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất, đồng thời có điều kiện tăng trưởng tín dụng từ 18%-20% lên 20%-22% theo yêu cầu của Chính phủ. (NLĐ)
---------------------------

Chi lương cho công chức đang tăng nhanh

Nhu cầu chi tiêu của Việt Nam vẫn tăng cao. Trong khi đó xu thế hội nhập sâu đã dẫn đến nguồn thu từ xuất nhập khẩu giảm, đặc biệt các nguồn thu từ tài nguyên, đất đai sau nhiều năm tăng ở mức cao đã giảm xuống trong những năm gần đây. 

Đây là đánh giá được đưa ra trong báo cáo “Đánh giá chi tiêu công Việt Nam: Chính sách tài khóa hướng đến bền vững, hiệu quả và công bằng” do Ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Tài chính tổ chức ngày 3-10.

Báo cáo cũng nêu rõ: “Việc bội chi ngân sách kéo dài ở mức cao đã làm tăng mức nợ công, rút ngắn kỳ hạn nợ và làm tăng gánh nặng trả nợ cho ngân sách, làm dấy lên quan ngại về khả năng bền vững tài khóa trong trung hạn”.

Đặc biệt theo WB, chi tiêu của Chính phủ so với GDP vẫn duy trì ở mức cao. Trong đó quỹ lương tăng nhanh, chiếm khoảng 20% tổng chi ngân sách, chủ yếu do tăng lương cơ sở và tăng số lượng công chức, viên chức, đặc biệt ở địa phương, với tốc độ cao hơn tốc độ tăng dân số.

Mặc dù so sánh quốc tế cho thấy tỉ lệ chi lương cho công chức, viên chức của Việt Nam chưa quá cao nhưng xu hướng chi lương tăng nhanh cho thấy cần phải thận trọng.

Chi lương cho công chức đang tăng nhanh - ảnh 1
Các thí sinh chuẩn bị vào phòng thi trong một kỳ thi tuyển công chức tại TP.HCM. Ảnh minh họa: HTD

Từ đó WB đưa ra khuyến nghị Chính phủ phải có cam kết mạnh mẽ về giảm bội chi và duy trì nợ công trong phạm vi giới hạn cho phép (65% GDP).(PLO)
--------------------------

60% nhân sự ngành bán lẻ “nhảy” việc chỉ sau 2 - 3 năm làm việc

Theo Navigos Group, thách thức lớn nhất mà nhà tuyển dụng trong ngành này phải đối mặt là tỷ lệ nhân viên nghỉ việc cao.

60% nhân sự ngành bán lẻ “nhảy” việc chỉ sau 2 - 3 năm làm việc

Ảnh minh họa.

Navigos Group vừa công bố "Báo cáo nhân sự ngành bán lẻ". Theo báo cáo này, thách thức lớn nhất mà nhà tuyển dụng trong ngành này phải đối mặt là tỷ lệ nhân viên nghỉ việc cao.

Chia sẻ cụ thể về thách thức lớn nhất này, 28% nhà tuyển dụng cho rằng ứng viên không cam kết lâu dài và thường xuyên thay đổi công việc. 49% nhà tuyển dụng cho biết, các ứng viên trong ngành này hay dao động khi đối thủ cùng ngành tiếp cận và mời họ làm việc.

Thách thức này của nhà tuyển dụng cũng tương đồng với sự phản ánh từ phía ứng viên cho thấy, có 60% ứng viên tham gia khảo sát chia sẻ, thời gian làm việc trung bình tại một công ty của họ chỉ từ 2 – 3 năm. 

Cũng theo kết quả của khảo sát, Navigos Group ghi nhận có khoảng cách giữa nhà tuyển dụng và ứng viên trong mối quan tâm về văn hóa doanh nghiệp.

Cụ thể, có đến 99% ứng viên ngành Bán lẻ tham gia khảo sát cho biết, họ quan tâm đến văn hóa doanh nghiệp thông qua Môi trường làm việc - Yếu tố con người – Tầm nhìn của doanh nghiệp, tương ứng với 30% - 33% và 29%.

Trong khi đó, ở phía doanh nghiệp, mặc dù có 51% nhà tuyển dụng coi sự phù hợp với văn hóa doanh nghiệp là yếu tố bắt buộc khi tuyển dụng, thì cũng có tới 40% nhà tuyển dụng còn lại cho biết việc ứng viên chưa phù hợp văn hóa doanh nghiệp cũng không phải là vấn đề lớn. 

Liên quan đến yếu tố văn hóa doanh nghiệp, khi được hỏi lý do chuyển việc gần đây nhất của ứng viên tham gia khảo sát, vượt trên cả lý do lương thưởng không như ý (22%), 29% các ứng viên cho biết việc không phù hợp với phong cách của người quản lý trực tiếp là lý do hàng đầu khiến họ nghỉ việc nhiều nhất.

Cũng liên quan trực tiếp đến người quản lý, 40% ứng viên trả lời rằng họ cảm thấy rất khó khăn nếu chuyển sang một doanh nghiệp mới (cùng ngành hoặc khác ngành) nếu họ không phù hợp với phong cách của người quản lý trực tiếp.

Chính vì vậy, việc cân nhắc đến sự phù hợp với văn hóa doanh nghiệp của ứng viên đặc biệt quan trọng đối với nhà tuyển dụng nhằm lựa chọn các ứng viên phù hợp nhất với doanh nghiệp. Tương tự, ứng viên sẽ lưa chọn các doanh nghiệp mà họ thấy phù hợp nhất để gắn bó và phát triển. 

Ứng viên nước ngoài là đối thủ cạnh tranh “đáng gờm” 

Báo cáo của Navigos Group cũng cho biết, sự dịch chuyển lao động trong khu vực dẫn đến sự cạnh trạnh mạnh mẽ hơn từ ứng viên nước ngoài.

Cụ thể, 50% nhà tuyển dụng cho biết hiện nay họ có chính sách tuyển dụng nhân sự cấp trung, cấp cao nước ngoài. Về phía ứng viên, 46% cho rằng công việc của họ đang gặp phải sự cạnh tranh từ ứng viên nước ngoài.

Chia sẻ về năng lực của ứng viên nước ngoài, 33% ứng viên tham gia khảo sát cho rằng ứng viên từ châu Âu giỏi nhất trong ngành Bán lẻ; 26% đánh giá cao năng lực của ứng viên đến từ Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc); 22% nghĩ rằng ứng viên thuộc khu vực Đông Nam Á là giỏi nhất trong ngành này. 

Xu hướng số hóa trong các hoạt động kinh doanh của ngành bán lẻ cũng ảnh hưởng đến mức độ chênh lệch trong việc trả lương cho ứng viên. Nhà tuyển dụng cho rằng họ sẵn sàng trả lương cho ứng viên có kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại điện tử (e-commerce) cao hơn ứng viên không có kinh nghiệm trong mảng này.

Cụ thể: 37% cho biết họ trả lương cao hơn từ 10 – 20%; 5% nhà tuyển dụng trả cao hơn từ 21 – 30%. Tuy nhiên, do lĩnh vực thương mại điện tử còn khá mới với thị trường Việt Nam, do vậy có đến gần một nửa ứng viên (48%) tham gia khảo sát không có kinh nghiệm trong mảng này. Gần một nửa còn lại (46%) cho biết họ có một vài năm kinh nghiệm và 6% cho biết họ có nhiều năm kinh nghiệm về thương mại điện tử. (Bizlive)

Trở về

Bài cùng chuyên mục