Mặc dù là thị trường chỉ đạt kim ngạch 9,8 triệu USD trong 7 tháng đầu năm nay, nhưng xuất khẩu thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh sang thị trường Philippines tăng mạnh 88% so với cùng kỳ năm 2017.

Chiếm 19% thị phần nhóm hàng và 18,1% tỷ trọng, Trung Quốc tiếp tục là thị trường chủ lực cung cấp giấy cho Việt Nam trong nửa đầu năm 2018.
Theo số liệu từ TCHQ, tính từ đầu năm đến hết tháng 6/2018 Việt Nam đã nhập khẩu 977 nghìn tấn giấy các loại, đạt 910,8 triệu USD, giảm 0,9% về lượng nhưng tăng 11% về trị giá so với cùng kỳ 2017. Tính riêng tháng 6/2018 lượng giấy nhập khẩu chỉ đạt 155,3 nghìn tấn đạt 150,3 triệu USD, giảm 14,6% về lượng và giảm 12,6% trị giá so với tháng 5/2018.
Trong số thị trường Việt Nam nhập khẩu mặt hàng giấy thì Trung Quốc chiếm thị phần lớn 19% với 186,4 nghìn tấn, đạt 165,1 triệu USD, giảm 12,11% về lượng nhưng tăng 4,16% về trị giá so với cùng kỳ, giá nhập bình quân tăng 18,51% lên 885,43 USD/tấn.
Tính riêng tháng 6/2018 lượng giấy nhập từ thị trường Trung Quốc là 27,9 nghìn tấn, trị giá 25,9 triệu USD, giảm 26,09% về lượng và 23,16% trị giá so với tháng 5/2018, giá nhập bình quân 928,42 USD, tăng 3,97%.
Đứng thứ hai sau thị trường Trung Quốc là Hàn Quốc, nếu so với cùng kỳ đều tăng trưởng cả lượng và trị giá, tăng lần lượt 30,23% và 30,20% tương ứng với 156,6 nghìn tấn, 142 triệu USD. Giá nhập bình quân 760,54 USD/tấn, tăng 2,38%.
Kế đến là các thị trường Nhật Bản, Indonesia, Thái Lan với lượng nhập tương ứng 151,9 nghìn tấn; 141,1 nghìn tấn; 108,1 nghìn tấn….
Nhìn chung, lượng giấy nhập từ các thị trường trong 6 tháng đầu năm 2018 đều sụt giảm, chiếm 61,1%, trong đó nhập từ thị trường Pháp giảm mạnh nhất 85,68% kế đến là thị trường Áo 83,29%. Ngược lại, thị trường với lượng nhập tăng chỉ chiếm 38,8%.
Đặc biệt, thời gian này Việt Nam tăng nhập khẩu giấy từ thị trường Ấn Độ, tuy chỉ đạt 18 nghìn tấn nhưng tăng gấp hơn 2 lần (tức tăng 207,46%) so với cùng kỳ. Giá nhập bình quân từ thị trường Ấn Độ 123,93 USD/tấn, giảm 49,41%.
Thị trường nhập khẩu giấy 6 tháng 2018
Thị trường | 6T/2018 | +/- so với cùng kỳ 2017 (%) | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Trung Quốc | 186.487 | 165.121.013 | -12,11 | 4,16 |
Hàn Quốc | 156.677 | 142.067.178 | 30,23 | 30,20 |
Nhật Bản | 151.905 | 115.529.974 | 34,71 | 37,92 |
Indonesia | 141.159 | 122.384.990 | 4,20 | 27,33 |
Thái Lan | 108.112 | 95.260.263 | -2,28 | 12,75 |
Đài Loan | 100.627 | 64.146.665 | -29,37 | -20,85 |
Malaysia | 30.988 | 28.476.726 | -16,57 | 1,67 |
Singapore | 18.607 | 78.789.241 | -37,48 | -10,23 |
Ấn Độ | 18.060 | 22.375.024 | 207,46 | 55,54 |
Phần Lan | 12.739 | 13.743.678 | 16,59 | 23,52 |
Nga | 10.344 | 10.714.064 | -12,36 | 2,22 |
Mỹ | 9.213 | 9.439.436 | -40,47 | -21,83 |
Philippines | 3.639 | 2.193.269 | 4,57 | 20,75 |
Đức | 2.682 | 5.839.579 | -0,78 | 34,79 |
Italy | 2.662 | 4.829.553 | -59,53 | -15,10 |
Thụy Điển | 2.144 | 2.531.861 | -17,41 | 2,07 |
Áo | 123 | 176.538 | -83,29 | -76,19 |
Pháp | 60 | 92.494 | -85,68 | -94,01 |
(Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Mặc dù là thị trường chỉ đạt kim ngạch 9,8 triệu USD trong 7 tháng đầu năm nay, nhưng xuất khẩu thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh sang thị trường Philippines tăng mạnh 88% so với cùng kỳ năm 2017.
Lần đầu tiên ngành gỗ đạt kim ngạch xuất khẩu 4,85 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm 2018. Mặc dù cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung diễn ra, nhưng hiện vẫn chưa ảnh hưởng tới ngành gỗ Việt Nam.
Nhìn chung, nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu từ đa số các thị trường trong 7 tháng đầu năm nay đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nhập từ Ấn Độ tăng mạnh nhất.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trị giá xuất khẩu hàng hóa cả nước trong tháng đạt 20,32 tỷ USD, tăng 2,4% so với tháng trước, tương ứng tăng 475 triệu USD về số tuyệt đối.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018, cả nước nhập khẩu 11,98 triệu tấn than đá, trị giá 1,39 tỷ USD, tăng mạnh trên 51% về lượng và tăng 73% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năm 2017.
ắt thép nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất có xuất xứ từ Trung Quốc, chiếm 48% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu sắt thép của cả nước, đạt 3,88 triệu tấn, trị giá 2,77 tỷ USD.
7 tháng đầu năm, cả nước xuất khẩu 3,93 triệu tấn gạo, tương đương 1,99 tỷ USD, tăng 13,7% về lượng và tăng 30,5% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2018 cả nước xuất khẩu 17,65 triệu tấn xi măng clinker, thu về 656,3 triệu USD, tăng 63,2% về lượng và tăng 73,4% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2017. Giá xi măng, clinker xuất khẩu đạt trung bình 37,2 USD/tấn, tăng 6,3%.
Sau khi sụt giảm ở tháng 6/2018, thì nay sang tháng 7 xuất khẩu phân bón đã lấy lại đà tăng trưởng, tăng 18,8% về lượng và 29,7% kim ngạch, đạt 77,7 nghìn tấn, 27,5 triệu USD.
7 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu kim loại và sản phẩm đóng góp vào kim ngạch của cả nước trên 1,3 tỷ USD.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự