Tại cuộc hội đàm ngày 17-4 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Sri Lanka Ranil Wickremesinghe đã nhất trí mục tiêu phấn đấu đưa kim ngạch thương mại song phương sớm đạt 1 tỉ USD.

Tính chung cho 7 tháng đầu năm 2016, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Philippines đạt trên 1,26 tỷ USD, tăng trưởng 13,1% so với cùng kỳ năm 2015.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Philippines trong tháng 7/2016 đạt trị giá 183,86 triệu USD, tăng 1,5% so với tháng 6/2016. Tính chung cho 7 tháng đầu năm 2016, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Philippines đạt trên 1,26 tỷ USD, tăng trưởng 13,1% so với cùng kỳ năm 2015.
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Philippines các mặt hàng chủ lực gồm: điện thoại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; dệt may; phương tiện vận tải phụ tùng; hàng nông sản;…
Trong 7 tháng đầu năm 2016, đạt kim ngạch cao nhất là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện với 143,88 triệu USD, chiếm 11,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 52,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu là nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác với 119,24 triệu USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 9,4% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện xếp thứ ba trong bảng xuất khẩu, với trị giá đạt 107,42 triệu USD, chiếm 8,5% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Philippines, tăng trưởng 41,9% so với cùng kỳ năm 2015.
Nhìn chung, trong 7 tháng đầu năm 2016, đa số các mặt hàng xuất khẩu sang Philippines đều có tốc độ tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm ngoái, một số mặt hàng có mức tăng trưởng cao trên 100% gồm: clanhke và xi măng tăng 164,1%; thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 134,5%; hóa chất tăng 106,8%; hạt điều tăng 105,6%;... đáng chú ý là mặt hàng hạt tiêu có mức tăng vượt trội, với mức tăng trưởng 243,0%, trị giá đạt 45,61 triệu USD.
Tuy nhiên, một số nhóm hàng xuất khẩu sang thị trường Philippines trong 7 tháng qua lại có kim ngạch sụt giảm so với cùng kỳ như: gạo giảm 66,4%; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện giảm 56,5%; sắt thép các loại giảm 43,8%.
Số liệu xuất khẩu hàng hóa sang Philippines tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2016
ĐVT: USD
Thị trường xuất khẩu | 7T/2016 | So 7T/2016 với cùng kỳ 2015 (% +/- KN) |
Tổng kim ngạch | 1.262.205.636 | 13,1 |
Điện thoại các loại và linh kiện | 143.882.736 | 52,2 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác | 119.246.637 | -1,2 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 107.421.370 | 41,9 |
Clanhke và xi măng | 99.286.317 | 164,1 |
Gạo | 82.786.298 | -66,4 |
Cà phê | 71.512.465 | 71,5 |
Hàng dệt, may | 47.631.344 | 40,6 |
Hạt tiêu | 45.613.648 | 243,0 |
Hàng thủy sản | 42.166.255 | 26,1 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng | 37.473.332 | 18,3 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 33.665.089 | 10,7 |
Giày dép các loại | 26.809.038 | 15,6 |
Sản phẩm hóa chất | 24.767.089 | 41,5 |
Xơ, sợi dệt các loại | 17.456.346 | 10,1 |
Phân bón các loại | 16.878.320 | -24,9 |
Dây điện và dây cáp điện | 15.420.630 | -5,7 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày | 12.549.543 | 64,1 |
Sắn và các sản phẩm từ sắn | 10.435.513 | -26,6 |
Thức ăn gia súc và nguyên liệu | 10.148.082 | 134,5 |
Chất dẻo nguyên liệu | 9.746.934 | 13,7 |
Hóa chất | 9.462.336 | 106,8 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc | 8.451.634 | 0,1 |
Sản phẩm từ sắt thép | 8.157.855 | -3,4 |
Sắt thép các loại | 8.078.433 | -43,8 |
Than đá | 7.032.500 | 33,0 |
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện | 6.193.665 | -56,5 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh | 6.105.641 | 104,1 |
Hạt điều | 5.811.302 | 105,6 |
Sản phẩm gốm, sứ | 5.611.138 | -31,5 |
Kim loại thường khác và sản phẩm | 4.640.185 | -13,2 |
Giấy và các sản phẩm từ giấy | 4.171.342 | 23,2 |
Chè | 1.328.939 | 93,7 |
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ | 706.906 | 68,7 |
Nguồn: VietnamExport.com/Vinanet
Tại cuộc hội đàm ngày 17-4 tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Sri Lanka Ranil Wickremesinghe đã nhất trí mục tiêu phấn đấu đưa kim ngạch thương mại song phương sớm đạt 1 tỉ USD.
Sau 55 năm chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam và Lào luôn giữ vững mối quan hệ hữu nghị truyền thống và không ngừng được củng cố theo thời gian.
Nhiều doanh nghiệp đang đầu tư hàng triệu USD vào phát triển vùng nguyên liệu, xây dựng nhà máy hiện đại để chế biến xuất khẩu nông sản VN vào Nhật.
Thái Lan đã vượt Trung Quốc trở thành thị trường chính Việt Nam nhập khẩu hàng điện gia dụng và linh kiện, chiếm 54,5% tổng kim ngạch, đạt 120 triệu USD.
Số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam cho biết, tháng 7/2016, cả nước đã xuất khẩu 103,8 nghìn tấn xơ, sợi dệt các loại, trị giá 256,7 triệu USD, tăng 2,1% về lượng và tăng 3,5% về trị giá so với tháng 6, nâng lượng xơ, sợi dệt 7 tháng đầu năm 2016 lên 641,5 nghìn tấn, trị giá 1,5 tỷ USD, tăng 15,6% về lượng và tăng 6,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2015.
Theo số liệu thống kê, trong 7 tháng đầu năm 2016 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Ai cập đạt 178,15 triệu USD, giảm 17% so với cùng kỳ năm trước.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hàng hóa sang Nga 7 tháng đầu năm 2016 đạt 911,1 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2015.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, 7 tháng đầu năm 2016 xuất khẩu sang Lào chỉ đạt 268 triệu USD, giảm 24,02% so với cùng kỳ năm 2015.
Thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, 7 tháng đầu năm nay, xuất khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ thu về 1,5 tỷ USD, tăng 3,31% so với cùng kỳ năm 2015, tính riêng tháng 7, xuất khẩu sang Ấn Độ đạt 250,1 triệu USD, giảm so với tháng 6 (261,9 triệu USD).
Tháng 7/2016, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường Nga 161,6 triệu USD, tăng 14,1% so với tháng 6/2016, nâng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này 7 tháng đầu năm 2016 lên 911 triệu USD, tăng 20,01% so với cùng kỳ năm 2015.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự