Một cơ chế tỷ giá linh hoạt hoàn toàn phải là do thị trường tự điều tiết. Trong khi đó, chính sách tỷ giá của NHNN tuy là “thả nổi có kiểm soát” nhưng thiên về kiểm soát hơn là thả nổi – tức là về bản chất cũng không khác gì so với trước đây.

Các chuyên gia ngân hàng đều cho rằng, việc thoái vốn tại thời điểm này đối với các ngân hàng là điều không hề dễ dàng.
Thông tư 36 được ban hành hồi tháng 11/2014 và có hiệu lực vào tháng 2/2015, trong đó quy định mỗi NHTM chỉ được nắm giữ cổ phần của tối đa không quá 2 TCTD khác và tỷ lệ nắm giữ phải dưới 5% vốn cổ phần ở mỗi TCTD.
Theo lộ trình, các NHTM đang nắm tỷ lệ sở hữu cổ phần tại hơn 2 TCTD khác phải tính đến việc thoái vốn trong vòng 1 năm. Trước ngày 1/2/2016, các ngân hàng phải xây dựng Phương án xử lý, biện pháp và kế hoạch thoái vốn để đảm bảo tuân thủ đúng quy định.
Như vậy, chỉ còn vài tháng nữa là các ngân hàng sẽ hết hạn thoái vốn theo lộ trình một năm mà NHNN cho phép. Tuy nhiên, thay vì rốt ráo tìm đối tác chuyển nhượng số cổ phần đang nắm giữ thì một số ngân hàng lại xin NHNN cho phép được tiếp tục sở hữu theo tỷ lệ hiện tại.
Để bình luận thêm về việc tại sao đến thời điểm này, nhiều ngân hàng vẫn đang chậm trễ thoái vốn, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng.
Ông Hiếu cho rằng, thời điểm hiện tại các ngân hàng thoái vốn sẽ gặp bất lợi. Chính vì vậy, các ngân hàng đang muốn trì hoãn để chờ vào thời điểm khác tốt hơn.
Ông chỉ ra, thị trường chứng khoán thời gian qua có khá nhiều biến động. Mặc dù cổ phiếu ngân hàng được đánh giá khá tốt nhưng vẫn chịu tác động từ tình hình tài chính chung như tỷ giá và biến động từ thị trường thế giới.
Tuy nhiên theo ông, thoái vốn là việc làm cần thiết và cần làm nhanh. Chính vì vậy, NHNN nên nhất quán và kiên quyết hơn. Nếu tạo điều kiện cho một vài trường hợp trì hoãn sẽ tạo ra tiền đề không tốt, bởi như thế sẽ hiểu rằng quyết định đã ban hành nhưng vẫn có những ngoại lệ.
“Nếu các ngân hàng trước kia đã hưởng lợi từ việc sở hữu cổ phần tại các TCTD khác một cách đáng kể thì thời điểm này nên chấp nhận thiệt hại nào đó để thực hiện theo đúng quy định”, ông chia sẻ quan điểm.
Ông cho biết thêm, khi đến thời điểm hết hạn để các NHTM thực hiện thoái vốn thì NHNN cần có biện pháp xử lý để răn đe. Tuy nhiên trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, NHNN có thể nhẹ tay trong việc xử lý, có thể là cảnh cáo nhưng việc rời lại quyết định là không nên.
Đồng quan điểm về việc các ngân hàng muốn thoái vốn tại thời điểm này là không hề dễ dàng, ông Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, mặc dù đây vẫn chưa phải giai đoạn nước rút nhưng các ngân hàng vẫn phải hết sức nỗ lực và khẩn trương thực hiện.
Xét cả về nguyên nhân chủ quan và khách quan, ông chỉ ra 4 yếu tố cần xem xét xoay quanh đến việc thoái vốn.
“Nghị quyết 15 ban hành từ tháng 3/2014, Chính phủ cho phép doanh nghiệp được thoái vốn dưới mệnh giá và dưới giá trị sổ sách sau khi đã bù trừ dự phòng tổn thất đầu tư. Vậy đối với hệ thống ngân hàng thì sao? ”, ông Lực nêu vấn đề. Vì thế, Chính phủ có cho phép ngân hàng thoái vốn và chấp nhận lỗ như doanh nghiệp hay không? Và nếu có thì cần có hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai là tùy thuộc một phần vào thị trường chứng khoán, thị trường phải tương đối tốt các ngân hàng mới thoái vốn để giảm thiểu số lỗ.
Thứ ba liên quan đến phương thức định giá số cổ phần ngân hàng muốn thoái vốn. Có ngân hàng sẽ được định giá theo giá cổ phiếu theo thị trường niêm yết còn những ngân hàng chưa niêm yết thì cần có phương thức định giá. Theo ông, NHNN sẽ quyết định giá cuối cùng đối với phần thoái vốn đó đặc biệt phần thoái vốn liên quan đến Nhà nước.
Và yếu tố cuối cùng, theo ông thoái vốn là cần thiết, các TCTD cần khẩn trương quyết liệt nhưng không phải là bằng mọi giá, dẫn đến thất thoát, thua lỗ. Bên cạnh đó, mỗi TCTD cần lập lộ trình phù hợp và một khi được chấp thuận thì phải kiên quyết thực hiện theo đúng cam kết đó.
Một cơ chế tỷ giá linh hoạt hoàn toàn phải là do thị trường tự điều tiết. Trong khi đó, chính sách tỷ giá của NHNN tuy là “thả nổi có kiểm soát” nhưng thiên về kiểm soát hơn là thả nổi – tức là về bản chất cũng không khác gì so với trước đây.
Nhấn mạnh điều này, TS. Vũ Đình Ánh cho rằng, một trong các nguyên nhân khiến lãi suất cho vay tiêu dùng hiện vẫn ở mức cao là vì số lượng người tham gia vào thị trường này chưa nhiều. Nói cách khác là thị trường chưa khai phá hết tiềm năng của nó.
HSBC dự báo giá USD cuối năm 2016 sẽ lên 23.000 đồng/USD, từ mức 22.500 đồng/USD của năm 2015.
Nếu tỷ giá điều hành linh hoạt hơn thì các mặt hàng xuất khẩu sẽ không bị mất tính cạnh tranh nhiều so với cách điều hành trước đây. Tuy nhiên, cơ chế này lại tạo ra thách thức cho những thành phần được lợi từ việc tỷ giá hối đoái ổn định, đó là DN vay nợ bằng ngoại tệ và các nhà đầu tư chứng khoán.
Mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra cơ chế tỷ giá mới không phải để tác động cho sản xuất, mà để chống găm giữ ngoại tệ, giảm đô la hóa. Do đó tác động đến xuất nhập khẩu cũng sẽ là lâu dài và hiện chưa cảm nhận được.
Việc dự đoán của giới đầu cơ sẽ trở nên khó khăn hơn khi Ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm có thể lên xuống hàng ngày tùy diễn biến thị trường.
Tỷ giá được liên tục điều chỉnh nhằm tránh áp lực tích lũy một thời gian dài lên tỷ giá như đã diễn ra trong những tuần gần đây lên dự trữ ngoại hối (dự trữ ngoại hối đã giảm mạnh trong 8 tháng qua).
Ngày 4/1/2016, tỷ giá kỳ hạn 360 ngày tại một số ngân hàng lớn được xác định trong khoảng 23.780 - 23.841 VND. Tính toán một cách tương đối, tỷ giá cuối năm nay đang được một bộ phận chính trên thị trường kỳ vọng sẽ tăng trong khoảng 5-5,7%.
Theo lãnh đạo ngân hàng Vietinbank, cơ chế tỷ giá trung tâm sẽ giúp cho các doanh nghiệp và TCTD chủ động nhiều hơn so với cơ chế điều hành tỷ giá trước đây trong việc quyết định hoạt động kinh doanh của mình liên quan đến ngoại tệ.
Đại diện các ngân hàng, quỹ đầu tư và chuyên gia tài chính kỳ vọng thông tin về cơ cấu tỷ giá sẽ góp phần giúp thị trường tài chính minh bạch hơn.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự