tin kinh te
 
 
 
rss - tinkinhte.com

Tin kinh tế đọc nhanh tối 18-01-2018

  • Cập nhật : 18/01/2018

Giá sữa thế giới cao nhất trong hơn một năm

Giá sữa trên thị trường thế giới tăng mạnh trong phiên đấu giá lần thứ hai của năm 2018 (16/1), do người mua dự đoán nguồn cung thiếu hụt từ New Zealand - nước xuất khẩu sữa lớn nhất trên thế giới.

Chỉ số giá trên sàn thương mại sữa toàn cầu tăng 4,9%, giá trung bình đạt 3.310 USD/tấn.

Sản lượng một số chủng loại sữa giảm tại Fonterra (nhà sản xuất sữa lớn nhất trên thế giới), do nguồn cung thiếu hụt bởi New Zealand đang phải đối diện với thời tiết khô hạn bất thường.

 

Chỉ số giá số giá sữa GDT tăng 2,2% so với phiên trước đó, khiến người chăn nuôi lo lắng rằng họ sẽ nhận được khoản thanh toán thấp hơn vào năm 2018.

Tuy nhiên, các nhà phân tích cảnh báo lợi nhuận có thể giảm trong những tháng tới do nguồn cung toàn cầu đối với một số sản phẩm sữa vẫn dồi dào.

Theo Amy Castleton, nhà phân tích của AgriHQ, sản lượng sữa từ New Zealand giảm sẽ hỗ trợ cho giá sữa bột nguyên kem (WMP).. vì New Zealand nhà cung cấp chính.

“Nhưng sản lượng sữa trên toàn cầu tiếp tục tăng trưởng, đáng chú ý là xuất khẩu từ châu Âu và châu Mỹ, vì vậy sữa bột tách kem (SMP), bơ và phomat sẽ tiếp cận thị trường toàn cầu trong những tháng tới”.

Trong phiên đấu giá, sữa bột nguyên kem tăng 5,1%; sữa bột tách kem cũng tăng mạnh 6,5%.

Tại New Zealand ngành sữa tạo ra hơn 7% tổng sản phẩm quốc nội và đồng đôla New Zealand (NZD) có thể ảnh hưởng đến kết quả đấu giá. Thời gian qua đồng NZD đã giảm 0,34% xuống 0,7273 sau khi hồi phục trong tuần qua.

Đã có 23.319 tấn sữa được giao dịch trong phiên đấu giá, giảm 8,2% so với phiên trước đó.

Phiên đấu giá được tổ chức hai lần/tháng và tiếp theo sẽ được tổ chức vào ngày 6/2/2018. (Vinanet)
----------------------------

Kinh tế tư nhân vẫn đang bị “cớm nắng”

Những cải cách mạnh mẽ của Chính phủ và một khu vực kinh tế tư nhân phát triển tốt là nền tảng cơ bản, là động lực tăng trưởng kinh tế.

ts. nguyen duc thanh

TS. Nguyễn Đức Thành

TS. Nguyễn Đức Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trả lời phỏng vấn của Thời báo Ngân hàng.

Năm 2018 đã trải qua 3 tuần đầu với một tâm thế hứng khởi bởi đà tăng trưởng đạt được từ năm 2017. Vậy, VEPR dự báo năm 2018 như thế nào, thưa Viện trưởng?

Chúng tôi tin rằng với định hướng điều hành của Chính phủ hiện nay, năm 2018 sẽ vẫn duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô, cùng với đó, những cải cách thể chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư được Chính phủ quyết tâm tiếp tục thực hiện sẽ phát huy hiệu quả, hỗ trợ tích cực hơn cho hoạt động kinh doanh.

Ba năm vừa qua tăng trưởng GDP vẫn đang trong xu thế dần đi lên, do đó, theo tôi mức tăng trưởng năm tới có thể được duy trì tương tự như 2017.

Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy năm 2017 có được mức tăng trưởng vượt mục tiêu, có phần quan trọng là nhà máy của Formosa đi vào hoạt động và Samsung mở rộng sản xuất. Vậy 2018 có động lực nào, thưa ông?

Như tôi đã nói, điều đáng mừng là cải cách của Chính phủ đang ngày càng tích lũy được quán tính lớn thêm. Cải cách về môi trường kinh doanh, thủ tục hành chính đang theo hướng thúc đẩy khu vực DN phát triển nhiều hơn, tạo ra môi trường hoạt động thuận lợi hơn cho DN. Khu vực kinh tế tư nhân tuy vẫn còn yếu, nhưng cũng đã có những thay đổi lớn, số lượng DN gia nhập thị trường tăng mạnh. Đây là điều tích cực để chúng ta có hy vọng cho tăng trưởng kinh tế năm sau. Đó là về phía cung.

Ngoài ra, về phía cầu, tôi cho rằng đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và mức độ tự tin đang tăng lên trong tiêu dùng, sẽ hỗ trợ thúc đẩy sản lượng.

Trong Báo cáo mà Viện trưởng vừa nhắc đến có dự báo rằng “Áp lực tăng trưởng cho năm 2018 thực sự là một thách thức lớn”?

Chúng tôi không chủ quan, nôn nóng mà luôn thận trọng để có dự báo sát thực nhất giúp cho công việc điều hành phù hợp nhất. Như báo cáo của VEPR đã phân tích, năm 2017 đã có mức tăng trưởng cao hơn kỳ vọng, động lực tăng trưởng cơ bản vẫn được duy trì sang năm 2018, nhưng trong nền kinh tế vẫn còn những yếu kém nội tại cố hữu chưa được giải quyết triệt để. Đây sẽ vẫn là lực cản đối với nền kinh tế trong thời gian tiếp theo.

Những vấn đề đó là: công nghiệp chế tạo trong nước chưa tạo ra được những đột phá mới, yếu ớt hoặc lệ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài; nông nghiệp vẫn đứng trước nhiều rủi ro lớn do tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu; xuất khẩu và tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào DN có vốn đầu tư nước ngoài, năng lực tự có của DN trong nước nhìn chung chưa cao. Hiện nay đóng góp của DN trong nước cho sản xuất công nghiệp, cho XK, cho GDP đều yếu và đáng lo ngại là có xu hướng giảm đi.

Nói một cách khái quát thì tăng trưởng chưa gắn liền với cải thiện năng suất của nền kinh tế. Tức là chất lượng tăng trưởng còn thấp, bấp bênh. Tái cơ cấu DNNN chưa thay đổi được về chất, chậm chạp, quy mô khu vực này vẫn lớn. Một điều đáng lo ngại nữa là ngân sách vẫn thâm hụt, thu chi đều chậm, nợ công tăng lên cản trở đầu tư của Nhà nước vào cơ sở hạ tầng và những công trình phúc lợi lớn mang tính dài hạn phục vụ cho con nguời như giáo dục, y tế. Đây là những cản trở cho chất lượng tăng trưởng tại Việt Nam.

Đảng và Chính phủ đã có chủ trương, định hướng rõ ràng về phát triển kinh tế tư nhân thành động lực tăng trưởng của đất nước. Khu vực này cũng đã có sự phát triển mạnh trong những năm qua, nhưng vẫn rất nhỏ bé và yếu ớt, theo Viện trưởng, vì sao?

Việc một nước muốn phát triển, thì phải đẩy mạnh khu vực kinh tế tư nhân là điều không phải bàn, nhưng làm sao cho khu vực này phát triển mạnh thực sự thì lại không phải điều dễ dàng.

Để hỗ trợ sự phát triển của kinh tế tư nhân, trong năm 2017 vừa qua Chính phủ đã làm được rất nhiều việc. Tuy nhiên, có thể lúc đầu thì dễ, nhưng càng về sau sẽ càng khó, trong đó liên quan đến hệ thống pháp luật của Việt Nam. Trước hết, cần một hệ thống pháp luật minh bạch và công bằng để bảo vệ quyền sở hữu và những thành quả của DN, doanh nhân, khi có tranh chấp thì giải quyết với thủ tục nhanh gọn, tiết kiệm chi phí cho DN.

Dù phát triển nhanh hơn gần đây (nhìn về số lượng), nhưng kinh tế tư nhân vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ bé: đóng góp ít hơn 10% vào GDP. Kinh tế tư nhân như cái cây đang bị cớm nắng do phải chen lấn dưới bóng các cây đại thụ trong khu vực kinh tế Nhà nước, tập đoàn nước ngoài… Cây cớm nắng thì dù có cố vươn cao được thì vẫn mảnh mai và yếu ớt.

Trong suốt 10 năm qua, đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP vẫn rất nhỏ khi không vượt qua mức 10% (tại các nước phát triển, mức đóng góp của khu vực này không dưới 80%). Như vậy, còn một chặng đường rất dài cho phát triển kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại một khu vực không chính thức là những hộ sản xuất kinh doanh “ngán” thủ tục rườm rà phức tạp nên không muốn đăng ký thành DN.

Để DN tư nhân không bị cớm nắng và có dư địa để phát triển, phải thu hẹp lại cái bóng quá lớn của khu vực Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại DN, thu hẹp DNNN lại sẽ tạo dư địa cho DN tư nhân phát triển. Đồng thời, tạo dựng một môi trường kinh doanh thực sự mang tính phục vụ DN.

Một trăn trở lớn của chúng ta là DN Việt Nam chưa tham gia được vào chuỗi, không gắn kết được với DN FDI. Vậy theo ông cần hỗ trợ DN Việt bằng chính sách nào để khắc phục được điều này?

Về lý thuyết chúng ta vẫn nói phải gắn kết FDI và DN nội để phát triển, nhưng làm được điều này không dễ, vì đa số các DN lớn nước ngoài không quan tâm tới nhà cung cấp nhỏ của Việt Nam bởi năng lực yếu; và bản thân các DN FDI đi tới đâu cũng mang theo cả mạng lưới rất nhiều nhà cung cấp của họ.

Để phát triển bền vững, trước hết chính các DN trong nước phải tự cứu nhau, liên kết lại để có một lực lượng DN tư nhân mạnh về chất lượng, chứ không chỉ là số đông.

Tôi hy vọng, các DN lớn như Vingroup, Sun Group, Thaco Trường Hải… cùng các tên tuổi khác sẽ là những hạt nhân gắn kết DN trong nước, để giúp các DN nhỏ của Việt Nam ngày càng lớn lên. Chính phủ phải quan tâm tới vấn đề này và cần yêu cầu về nghĩa vụ cho những DN lớn này.

Tất nhiên không thể ép buộc bằng luật hay quy định, mà phải tạo hệ thống chính sách phù hợp, tạo động lực, khuyến khích các DN lớn hỗ trợ, gắn kết, chia sẻ, đặt hàng với các DN nhỏ, để cùng kéo khu vực tư nhân phát triển theo chiều sâu. Nếu mạng lưới DNNVV có năng lực sản xuất tốt hơn, tự các DN lớn cũng được hưởng lợi từ đó. Đây là cú hích đầu tiên và nếu thiếu thì sẽ không có được sự lớn mạnh.

Đơn cử, Nhà nước đặt hàng các DN lớn với số lượng lớn hàng hoá hay dịch vụ, nhưng kèm theo điều kiện DN này phải có đối tác là hàng chục, hàng trăm xưởng của các DN nhỏ nội địa, chứ không phải đi nhập hàng hoá nguyên liệu đầu vào ở nước ngoài. Có như thế mới kéo nhau lớn lên được. Các nước phát triển cũng phải có mô hình này.(TBNH)
----------------------------

Việt Nam mong muốn tăng cường hợp tác thương mại với Malaysia

Sáng 18/1, tại Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã tiếp Chủ tịch Thượng viện Malaysia S. Vigneswaran M Sanasee.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tiếp Chủ tịch Thượng viện Malaysia S Vigneswaran M Sanasee. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN.

Thay mặt Quốc hội Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội chào mừng Ngài Chủ tịch Thượng viện và Đoàn đại biểu Thượng viện Malaysia tham dự Hội nghị APPF-26 tại Hà Nội; cho rằng, sự tham dự của Đoàn là sự ủng hộ tích cực đối với việc Quốc hội Việt Nam đăng cai tổ chức sự kiện quan trọng này.

Bày tỏ vui mừng về quan hệ giữa Việt Nam và Malaysia ngày càng được tăng cường và củng cố, Chủ tịch Quốc hội đề nghị trong thời gian tới hai bên cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa để có những chương trình hợp tác cụ thể, làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược, hiện thực hoá những thoả thuận của Lãnh đạo cấp cao hai nước.

Việt Nam mong muốn tăng cường hơn nữa hợp tác với Malaysia trong hợp tác thương mại, trong đó có mặt hàng gạo; đề nghị Malaysia hợp tác chặt chẽ hơn với Việt Nam trong lĩnh vực lao động.

Đánh giá cao sự hợp tác của Chính phủ Malaysia trên một số vấn đề liên quan đến ngư dân và công tác bảo hộ công dân, Chủ tịch Quốc hội đề nghị các nghị sỹ Malaysia quan tâm có tiếng nói tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Malaysia.

Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội cảm ơn Malaysia đã cam kết ủng hộ Việt Nam vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.

Trong thời gian tới, đề nghị hai bên đẩy mạnh hợp tác nhằm cùng nhau xây dựng môi trường hòa bình, ổn định tại khu vực, củng cố đoàn kết ASEAN; đặc biệt là hợp tác trong những vấn đề hai nước có chung lợi ích, như duy trì hòa bình, ổn định tại Biển Đông và xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Chủ tịch Quốc hội mong muốn Quốc hội hai nước tăng cường hợp tác và phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế và khu vực để trao đổi về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm, nhất là tại các Diễn đàn nghị viện, như IPU, AIPA, APPF...

Chủ tịch Thượng viện Malaysia S. Vigneswaran M Sanasee cảm ơn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã dành thời gian cho cuộc tiếp và trân trọng cảm ơn sự đón tiếp trọng thị, thân tình, chu đáo của nước chủ nhà Việt Nam.

Chủ tịch Thượng viện Malaysia nhất trí với ý kiến đánh giá của Chủ tịch Quốc hội về quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Malaysia ngày càng được tăng cường và củng cố trong hơn 40 năm qua kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao và đã nâng cấp lên quan hệ Đối tác chiến lược vào tháng 8​/2015.

Hai bên đã tích cực triển khai các nội hàm quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược.

Cụ thể, quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai nước ngày càng tăng trưởng (kim ngạch trao đổi thương mại song phương trong 10 tháng đầu năm 2017 đạt 8,2 tỷ USD; về đầu tư, Malaysia có 562 dự án với tổng số vốn trên 12 tỷ USD, đứng thứ 7 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam).

Hợp tác giữa hai nước trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, lao động, thể thao cũng không ngừng được mở rộng.

Đánh giá cao những thành quả Việt Nam đã đạt được thời gian qua, Chủ tịch Thượng viện Malaysia bày tỏ mong muốn học hỏi kinh nghiệm từ Việt Nam; đồng thời nhấn mạnh, Malaysia sẽ nỗ lực để thúc đẩy mối quan hệ hai nước ngày càng bền chặt hơn nữa trong tương lai.

Theo đó, trên cơ sở của hợp tác sẵn có, hai bên đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực tiềm năng như du lịch bởi hiện nay nhiều người dân Malaysia sang Việt Nam du lịch do gần gũi về địa lý và thuận tiện trong việc mua sắm, thăm quan cảnh đẹp thiên nhiên…

Trong hợp tác Quốc hội, nhất trí với ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Thượng viện S.Vigneswaran M. Sanasee cho rằng, thời gian tới hai bên cần duy trì các chuyến thăm, tiếp xúc cấp cao của Quốc hội và giữa các cơ quan của Quốc hội hai nước; đẩy mạnh giao lưu giữa các nghị sỹ; tăng cường vai trò cầu nối của các nghị sỹ, giao lưu nhân dân...(Vietnam+)
----------------------------

Cần cơ chế ưu đãi cho DN logistics

Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) là tập đoàn hàng hải hàng đầu với ba lĩnh vực hoạt động chính về vận tải biển, khai thác cảng và dịch vụ logistics kho bãi. Theo ông Lê Quang Trung, Phó Tổng giám đốc Vinalines, ngoài sự nỗ lực tự thân của DN, rất cần cơ chế, chính sách ưu đãi cho đội tàu cũng như các DN logistics để giúp DN nâng cao khả năng cạnh tranh.

ong le quang trung, pho tong giam doc vinalines.

Ông Lê Quang Trung, Phó Tổng giám đốc Vinalines.

Ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của ngành logistics những năm qua, đặc biệt là ở hàng hải?

Trong những năm qua, ngành logistics của Việt Nam, đặc biệt trong ngành hàng hải có những chuyển biến tích cực, phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, sự phát triển này chưa xứng với tiềm năng, lợi thế của Việt Nam.

Những hạn chế giai đoạn vừa qua trước hết nằm ở hạ tầng logistics, khi hạ tầng có phát triển nhưng chưa tổng thể, tính kết nối chưa cao. Thứ hai là hạn chế áp dụng công nghệ trong môi trường cách mạng công nghiệp lần thứ tư để cải tiến chất lượng dịch vụ, giảm chi phí. Thứ ba là vấn đề nguồn nhân lực. Những năm qua, dù nguồn nhân lực ngành logistics được phát triển, đào tạo bài bản hơn nhưng trong các ngành về khai thác cảng, kho bãi… vẫn cần tăng cường chất lượng hơn nữa.

Vinalines đã và đang có chiến lược phát triển như thế nào với ngành logistics, thưa ông?

Quan điểm chiến lược của Vinalines trong phát triển logistics là tiến tới xây dựng một chuỗi logistics tích hợp trên cơ sở những điểm mạnh của DN về hạ tầng, con người, quy mô ở phạm vi toàn quốc, kết nối ba điểm mạnh trong lĩnh vực vận tải, cảng và logistics nhằm mang lại cho khách hàng một giải pháp về logistics tổng thể với chi phí logistics thấp nhất.

Trong chiến lược phát triển logistics của Vinalines, chúng tôi tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể. Thứ nhất, ở thị trường nội địa, Vinalines đang xây dựng các chuỗi logistics, các giải pháp logistics cho các ngành sản xuất quan trọng như ngành nhiệt điện, thép, xi măng...

Thứ hai, Vinalines phát triển các trung tâm về logistics trong nước, tiến tới ở nước ngoài, đầu tiên là trung tâm đang đặt tại châu Âu. Logistics là ngành đòi hỏi có tính phối hợp, tương tác rất cao về hợp tác quốc tế. Việc thành lập ra các trung tâm logistics ở nước ngoài trên cơ sở có những cơ chế đặc biệt cho luồng hàng hóa đi từ Việt Nam hay về Việt Nam nhằm thuận lợi hóa, giảm chi phí liên quan đến thuế, phụ phí... Đây là một trong những giải pháp phát triển ngành logistics Việt Nam trong thời gian tới, không chỉ cho các DN sản xuất Việt Nam mà còn cho các DN sản xuất quốc tế đặt trụ sở tại Việt Nam.

Thứ ba, Vinalines đưa ra một số giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí như giải pháp vận tải RORO (RORO là dạng tắt của Roll-on/Roll-off là một thuật ngữ trong ngành vận tải ngoại thương dùng cho các loại hàng tự vận hành lên tàu được như xe hơi, xe tải,… Các mặt hàng siêu trường, siêu trọng không vào container được  thì buộc phải sử dụng phương thức RORO, sau đó sẽ có những phương án cố định đặc biệt để tránh cho hàng không dịch chuyển trong suốt quá trình vận chuyển-PV), sử dụng vận tải biển để vận tải hàng container Bắc-Nam... Giải pháp này giúp giảm tải đường bộ, giảm chi phí giá thành và thân thiện với môi trường.

Xin ông chia sẻ rõ hơn về mức độ tiết giảm giá thành logistics từ các giải pháp mà Vinalines đã và đang triển khai?

Chi phí giá thành hiện nay nếu tính toán trên cơ sở chi phí vận hành, đối với một container, khi sử dụng phương thức vận tải RORO so với vận tải đường bộ, giá thành chỉ còn khoảng ¼. Tuy nhiên, điều quan trọng là để triển khai được, Vinalines rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ liên quan đến cơ chế chính sách, đầu tư ban đầu. Hiện nay, loại tàu RORO chuyên dùng (là loại tàu được thiết kế để chở các loại hàng hóa có bánh xe như ô tô, rơ móc, toa xe hoả... Tàu RORO có trang bị cầu dẫn để hàng hóa là các loại phương tiện có thể lên hoặc xuống dễ dàng-PV) Việt Nam chưa có mà phải thuê tàu hoặc liên doanh với nước ngoài. Trong một giai đoạn nhất định, Việt Nam sẽ phải có tàu treo cờ nước ngoài. Điều này đòi hỏi có sự chấp thuận của Chính phủ và Bộ Giao thông vận tải.

Ngoài cơ chế chính sách liên quan tới phương thức vận tải RORO, thời gian tới, Vinalines có kiến nghị gì đến Chính phủ nhằm giúp DN gia tăng sức cạnh tranh, thưa ông?

Với nhu cầu luân chuyển hàng hóa không ngừng tăng lên, năm qua tổng lượng hàng hóa qua các cảng XNK của Việt Nam lên tới xấp xỉ 1 tỷ tấn nhưng đội tàu của Vinalines nói riêng, Việt Nam nói chung cũng như hệ thống logistics của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ, khoảng 10-11% tổng lượng hàng XNK mà Việt Nam có thể làm.

Việc này phát sinh từ quy mô, một số bất cập từ bản thân DN, đồng thời cũng xuất phát từ tập quán kinh doanh. Hiện nay, các DN  XNK của Việt Nam, đặc biệt trong các mặt hàng chiến lược như than, quặng,… đa số vẫn có tập quán nhập hàng theo hình thức CIF. Điều này có nghĩa là, quyền vận tải chủ yếu rơi vào tay người bán. Người bán đa số là người nước ngoài nên quyền vận tải rơi vào tay nhà vận tải nước ngoài.

Vì vậy, trong điều kiện hiện tại, Chính phủ rất cần có cơ chế, chính sách ưu đãi cho đội tàu cũng như các nhà logistics Việt Nam được giành một phần hàng hóa, ví dụ  20-30% lượng hàng XNK dành cho đội tàu của Việt Nam; đồng thời dùng tổ chức đấu thầu trong nước thay vì đấu thầu quốc tế vì đấu thầu quốc tế thì năng lực cạnh tranh của Việt Nam chưa cao. Điều này hoàn toàn phù hợp với Luật DN và không trái với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).(Baohaiquan)

Trở về

Bài cùng chuyên mục