Tháng 4/2018 nhập khẩu phân bón tăng cả ở lượng và trị giá – đây là tháng tăng thứ hai liên tiếp. Về sản xuất trong tháng lượng phân Ure giảm nhưng NPK tăng so với tháng trước.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư năm nay ước tính đạt 18,20 tỷ USD, giảm mạnh 13,9% so với tháng trước, chủ yếu do số ngày làm việc trong tháng ít hơn 3 ngày so với tháng trước và các sản phẩm Galaxy S9, S9+ được Samsung tập trung xuất khẩu trong tháng Ba.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu trong tháng 4 đều có kim ngạch giảm so với tháng trước, trong đó một số mặt hàng giảm mạnh: Sắt thép giảm 32,1%; điện thoại và linh kiện giảm 24,1%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 11,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 12,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư năm nay tăng 4,1%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 32,2%, hàng dệt may tăng 18,4%, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 17,9%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 73,76 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 20,28 tỷ USD, tăng 17,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) chiếm tới 72,5% tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 53,48 tỷ USD, tăng 19,4%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng khá so với cùng kỳ năm trước:Điện thoại và linh kiện đạt 16,6 tỷ USD, tăng 36,8%; hàng dệt may đạt 8,6 tỷ USD, tăng 15,7%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 8,3 tỷ USD, tăng 10,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 5 tỷ USD, tăng 29,6%; giày dép đạt 4,5 tỷ USD, tăng 6,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,6 tỷ USD, tăng 18,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,6 tỷ USD, tăng 9%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng nông sản, thủy sản cũng tăng khá: thủy sản đạt 2,4 tỷ USD, tăng 13%; rau quả đạt 1,3 tỷ USD, tăng 26,2%; hạt điều đạt 1,1 tỷ USD, tăng 33,5% (lượng tăng 24,6%); gạo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 38,3% (lượng tăng 22,3%). Một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô đạt 668 triệu USD, giảm 24,9% (lượng giảm 41,4%); hạt tiêu đạt 317 triệu USD, giảm 31,9% (lượng tăng 17,9%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 4 tháng đầu năm nay, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 14 tỷ USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 56,4%; giày dép tăng 13,5%; hàng dệt may tăng 12,1%. Tiếp đến là EU đạt 13,2 tỷ USD, tăng 16%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 41,9%; điện thoại và linh kiện tăng 30,7%;điện tử, máy tính và linh kiện tăng 7,9%. Trung Quốc đạt 10,7 tỷ USD, tăng 29%, trong đó điện thoại và linh kiện gấp gần 3,7 lần cùng kỳ năm trước; rau quả tăng 24%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 23%. Thị trường ASEAN đạt 7,9 tỷ USD, tăng 16,4%, trong đó gạo tăng 159%; sắt thép tăng 52,5%; điện thoại và linh kiện tăng 16%. Nhật Bản đạt 5,8 tỷ USD, tăng 15,2%, trong đó hàng dệt may tăng 24,1%;phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 17,2%. Hàn Quốc đạt 5,8 tỷ USD, tăng 31,2%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 46,2%; điện thoại và linh kiện tăng 37,4%; hàng dệt may tăng 22,6%.
Nguồn: Vietnamexport.com
Tháng 4/2018 nhập khẩu phân bón tăng cả ở lượng và trị giá – đây là tháng tăng thứ hai liên tiếp. Về sản xuất trong tháng lượng phân Ure giảm nhưng NPK tăng so với tháng trước.
Tính từ đầu năm đến hết tháng 4/2018, lượng tiêu xuất khẩu của Việt Nam tăng 13,8% nhưng kim ngạch giảm 34% so với cùng kỳ do giá xuất bình quân giảm 42% xuống 3.536,4 USD/tấn.
Dầu thô xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc giảm mạnh 62% về lượng và giảm 52% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Khoai lang Việt Nam có sản lượng ổn định, đạt quy định an toàn trong sản xuất và chất lượng cao nên có thể sẽ được nhà bán lẻ đến từ Thái là MM Mega Market Việt Nam đặt hàng số lượng lớn và dài hạn để xuất bán sang Thái trong thời gian tới.
Theo thông tin từ các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gạo, nhu cầu nhập khẩu gạo của một số thị trường truyền thống đã giúp xuất khẩu gạo của Việt Nam từ đầu năm đến nay diễn biến khá thuận lợi.
4 tháng đầu năm 2018 lượng sắt thép nhập khẩu giảm 24,1% về lượng và giảm 6,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017, đạt 4,28 triệu tấn, trị giá trên 3,03 tỷ USD.
Bốn tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản của cả nước đạt 2,45 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy thị trường Malaysia chỉ đứng thứ 4 lượng phân bón cung cấp cho Việt Nam, nhưng so với quý 1/2017 có mức độ tăng vượt trội gấp hơn 2 lần cả về lượng và trị giá.
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu quặng và khoáng sản vào Việt Nam quý 1/2018 tăng 157% về lượng và tăng 148% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017, đạt 2,92 triệu tấn, tương đương 260,35 triệu USD.
Số liệu thống kê 4 tháng đầu năm 2018 của Tổng cục Hải quan cho thấy, lượng quặng và các loại khoáng sản xuất khẩu 4 tháng qua đạt 1,5 triệu tấn, giá trị xuất khẩu đạt hơn 65,5 triệu USD. Bình quân, giá quặng xuất khẩu đạt 988.000 đồng/tấn.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự