Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 4/2019 đạt 275 triệu USD, giảm 20,26% so với tháng trước đó và giảm 21,2% so với cùng tháng năm ngoái.

Tuy là thị trường đứng thứ tư về lượng bông nhập khẩu trong quý 1/2019, nhưng tốc độ tăng trưởng từ Achentina tăng đột biến cả về lượng và trị giá so với quý 1/2018.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ, tháng 3/2019 nhập khẩu bông của Việt Nam tăng mạnh cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 67,1% và 69,6% - đây là tháng tăng mạnh nhất kể từ đầu năm – đạt tương ứng 150,2 nghìn tấn, trị giá 282,29 triệu USD. Nâng lượng bông nhập khẩu quý 1/2019 lên 379,8 nghìn tấn, trị giá 710,6 triệu USD, giảm 8,6% về lượng và giàm 6,3% trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Việt Nam nhập khẩu bông chủ yếu từ thị trường Mỹ, chiếm 54,6% tổng lượng nhóm hàng đạt 207,3 nghìn tấn, trị giá 398,22 triệu USD, tăng 13,21% về lượng và 16,69% trị giá so với cùng kỳ. Giá nhập bình quân 1920,30 USD/tấn, tăng 3,07%. Tính riêng tháng 3/2019 Việt Nam cũng đã nhập từ Mỹ 89,96 nghìn tấn, trị giá 190,11 triệu USD, tăng gấp 2,3 lần về lượng (tức tăng 126,66%) và gấp 2,3 lần về trị giá (tức tăng 128,18%) so với tháng 2/2019.
Đứng thứ hai sau thị trường Mỹ là Ấn Độ với 67,1 nghìn tấn, trị giá 118,93 triệu USD, giảm 27,02% về lượng và giảm 23,08% về trị giá so với cùng kỳ. Riêng tháng 3/2019 Việt Nam cũng nhập từ Ấn Độ 14,99 nghìn tấn, trị giá 26,33 triệu USD, giảm 25,98% về lượng và 26,58% trị giá so với tháng 2/2019.
Ngoài hai thị trường chính kể trên, Việt Nam nhập khẩu từ các thị trường như: Brazil, Austrlaia, Achentina, Indonesia…
Nhìn chung, quý đầu năm 2019 lượng bông nhập từ các thị trường đều tăng trưởng, trong đó đặc biệt nhập từ thị trường Achentina tăng đột biến, gấp 12,16 lần về lượng (tương ứng 1116,45%) và gấp 13,08 lần về trị giá (tương ứng 1208,88%), tuy chỉ đạt 4,7 nghìn tấn, trị giá 8,38 triệu USD, giá nhập bình quân tăng 7,6% đạt 1772,82 USD/tấn.
Ngoài thị trường Achentina, Việt Nam còn tăng mạnh nhập từ thị trường Indoensia với mức tăng gấp 4,2 lần về lượng (tương ứng 318,31%) và gấp 3,5 lần về trị giá (tương ứng 246,76%) đạt 4,2 nghìn tấn, trị giá 4,25 triệu USD, mặc dù giá nhập bình quân giảm 17,1% với 1011,45 USD/tấn.
Bên cạnh đó lượng bông được nhập từ các thị trường Pakistan và Trung Quốc cũng tăng mạnh đều gấp trên 2 lần so với cùng kỳ 2018.
Thị trường cung cấp bông quý 1/2019
Thị trường | Quý 1/2019 | +/- so với quý 1/2018 (%)* | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Mỹ | 207.376 | 398.223.649 | 13,21 | 16,69 |
Ấn Độ | 67.100 | 118.933.584 | -27,02 | -23,08 |
Brazil | 47.174 | 89.994.132 | -35,19 | -32,53 |
Australia | 12.823 | 25.462.460 | 88,88 | 93,92 |
Achentina | 4.732 | 8.388.999 | 1.116,45 | 1.208,88 |
Indonesia | 4.204 | 4.252.127 | 318,31 | 246,76 |
Bờ Biển Ngà | 2.584 | 4.690.224 | -6,75 | -2,98 |
Hàn Quốc | 1.128 | 1.622.699 | 26,32 | 51,34 |
Pakistan | 620 | 646.323 | 134,85 | 70,66 |
Trung Quốc | 217 | 354.351 | 130,85 | 45,07 |
Đài Loan | 123 | 226.347 | -39,71 | -7,36 |
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 4/2019 đạt 275 triệu USD, giảm 20,26% so với tháng trước đó và giảm 21,2% so với cùng tháng năm ngoái.
Trong cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc trong quý 1/2019, mặt hàng ôtô tuy kim ngạch chỉ đạt trên 40 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ tăng vượt trội.
Xuất khẩu sản phẩm nhựa của Việt Nam hàng năm cũng thu về đền tiền tỷ USD, nhưng ngược lại cũng phải nhập khẩu nguyên liệu tới hàng trăm triệu USD. Cùng với quá trình hội nhập và sự bùng nổ của Cách mạng công nghiệp 4.0, sẽ tạo ra cơ hội lớn cho ngành công nghiệp nhựa Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao trong thời gian tới. Tuy nhiên, ngành này cũng đang gặp phải không ít khó khăn, đặc biệt là về nguyên liệu.
Quý 1/2019, Trung Quốc tăng mạnh nhập khẩu xi măng, chè, dầu thô và hóa chất từ Việt Nam, đều tăng gấp trên 2 lần so với cùng kỳ năm 2018.
Xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ 3 tháng đầu năm 2019 đạt gần 13,32 tỷ USD, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong quý 1/2019 kim ngạch xuất khẩu túi xách, va li, ô dù ra thị trường nước ngoài đạt 841,23 triệu USD, tăng 10,4% so với quý 1/2018; trong đó riêng tháng 3/2019 đạt 299,8 triệu USD, tăng mạnh 82,5% so với tháng 2/2019 và tăng 9,7% so với tháng 3/2018.
Xuất khẩu sản phẩm nhựa quý 1/2019 đạt 807,33 triệu USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2018.
Quý 1/2019 xuất khẩu than đá của cả nước đạt 31.381 tấn, thu về 4,34 triệu USD, giảm mạnh 94,6% về lượng và giảm 94,2% về kim ngạch so với quý 1/2018.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu sau khi sụt giảm cả về lượng và kim ngạch trong tháng 2/2019, thì tháng 3/2019 tăng mạnh 110,5% về khối lượng và tăng 102,3% về kim ngạch so với tháng 2/2019, đạt 35.269 tấn, tương đương 89,45 triệu USD; so với tháng 3/2018 thì tăng 17,3% về lượng nhưng giảm 15,8% về kim ngạch.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sau khi sụt giảm mạnh trên 60% trong tháng 2/2019 thì sang tháng 3/2019 lại tăng rất mạnh 93,7% so với tháng liền kề trước đó, đạt 2,53 tỷ USD; so với cùng tháng năm 2018 cũng tăng 9,3%.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự