Năm 2018, thương mại hai chiều giữa Việt Nam – Campuchia đạt 5,4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tăng 34,98% đạt 3,74 tỷ USD và nhập khẩu 963 triệu USD, giảm 6,46%. Như vậy, Việt Nam đã xuất siêu trên 2 tỷ USD…

Hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông (TQ) liên tục đạt mức tăng trưởng khá. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 8 tháng đầu năm 2018 xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này đạt 5,26 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 8/2018, kim ngạch đạt 831,48 triệu USD, tăng 40% so với tháng 7/2018 và cũng tăng 11,7% so với tháng 8/2017.
Những nhóm hàng đạt kim ngạch lớn xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông (TQ) 8 tháng đầu năm 2018 gồm: Điện thoại các loại và linh kiện; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng …
Trong đó, nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 1,48 tỷ USD, chiếm trên 28% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa các loại sang thị trường này, tăng 29% so với cùng kỳ năm trước.
Đứng thứ hai là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 1,32 tỷ USD, chiếm 25%, giảm 8,3%. Nhóm máy ảnh, máy quay phim và linh kiện đứng thứ 3 về kim ngạch với 763,75 triệu USD, chiếm 14,5%, tăng 35,3%. Tiếp đến nhóm máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 656,9 triệu USD, chiếm 12,5%, tăng 3,3%.
Hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông (TQ) 8 tháng đầu năm nay hầu hết đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý nhất là nhóm sản phẩm nhựa có kim ngạch tăng trưởng mạnh nhất 159,5% về kim ngạch, đạt 39,89 triệu USD.
Ngoài ra, xuất khẩu còn tăng mạnh ở một số nhóm hàng như: Gạo tăng 70,6%, đạt 32,26 triệu USD; sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ tăng 55,7%, đạt 1,32 triệu USD; sắt thép tăng 36%, đạt 0,55 triệu USD.
Tuy nhiên, xuất khẩu kim loại thường khác và sản phẩm sang Hồng Kông lại sụt giảm mạnh nhất 55,7% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ đạt 8,07 triệu USD. Bên cạnh đó, xuất khẩu cũng giảm mạnh ở một số nhóm hàng như: Gỗ và sản phẩm gỗ (-51,3%); bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc (-19,5%); sản phẩm từ cao su (-18,3%).
Xuất khẩu sang Hồng Kông (TQ) 8 tháng đầu năm 2018
ĐVT: USD
Nhóm hàng | T8/2018 | +/- so với T7/2018(%)* | 8T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%)* |
Tổng kim ngạch XK | 831.480.277 | 40,05 | 5.257.531.147 | 10,26 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 231.936.344 | 25,27 | 1.475.316.093 | 28,99 |
Điện thoại các loại và linh kiện | 226.425.604 | 96,84 | 1.317.549.875 | -8,3 |
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện | 110.081.672 | 90,84 | 763.750.097 | 35,32 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác | 109.498.642 | 16,67 | 656.898.118 | 3,27 |
Hàng dệt, may | 28.213.111 | 7,1 | 173.993.939 | 21,83 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày | 19.687.146 | -1,03 | 149.626.895 | 13,95 |
Hàng thủy sản | 16.953.946 | 2,18 | 125.415.026 | 23,59 |
Giày dép các loại | 19.984.135 | 76,44 | 114.707.468 | -0,01 |
Xơ, sợi dệt các loại | 9.537.066 | -9,7 | 59.056.407 | -11,94 |
Túi xách, ví,vali, mũ và ô dù | 8.270.207 | 3,62 | 52.640.502 | 7,47 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 5.687.371 | 4,57 | 39.892.374 | 159,5 |
Dây điện và dây cáp điện | 5.911.332 | -20,66 | 35.078.143 | 7,44 |
Gạo | 5.215.637 | 12,47 | 32.259.371 | 70,6 |
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm | 2.528.789 | 50,83 | 22.568.935 | -7,83 |
Hàng rau quả | 1.779.787 | 8,75 | 13.547.120 | 4,32 |
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận | 2.488.104 | 64,56 | 12.546.104 | 22,04 |
Hạt điều | 1.780.259 | 25,03 | 12.376.382 | 17,92 |
Sản phẩm từ sắt thép | 3.921.921 | 221,17 | 10.041.285 | 24,27 |
Kim loại thường khác và sản phẩm | 652.918 | -33,24 | 8.068.238 | -55,68 |
Sản phẩm hóa chất | 1.060.217 | 16,84 | 6.395.424 | -15,87 |
Gỗ và sản phẩm gỗ | 433.642 | -49,98 | 5.671.983 | -51,26 |
Giấy và các sản phẩm từ giấy | 799.098 | 30,35 | 5.189.635 | 12,98 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc | 646.623 | 4,81 | 4.391.635 | -19,48 |
Cao su | 421.844 | 117,46 | 2.224.876 | 4,71 |
Sản phẩm từ cao su | 213.791 | 57,47 | 2.028.357 | -18,3 |
Chất dẻo nguyên liệu | 93.896 | -46,07 | 1.862.953 | 6,17 |
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ | 234.972 | 20,51 | 1.324.521 | 55,69 |
Sản phẩm gốm, sứ | 111.946 | -60,3 | 1.035.081 | 4,01 |
Sắt thép các loại | 123.272 |
| 548.672 | 36,03 |
(*Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Năm 2018, thương mại hai chiều giữa Việt Nam – Campuchia đạt 5,4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tăng 34,98% đạt 3,74 tỷ USD và nhập khẩu 963 triệu USD, giảm 6,46%. Như vậy, Việt Nam đã xuất siêu trên 2 tỷ USD…
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu thủy sản các loại vào Việt Nam trong tháng 1/2019 tăng 1% so với tháng liền kề trước đó nhưng giảm 9,6% so với cùng tháng năm 2018, đạt 156,33 triệu USD.
Việt Nam là đối tác thương mại song phương lớn nhất của Canada kể từ năm 2015, trong đó Việt Nam ghi nhận xuất siêu.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng đầu năm 2019 xuất khẩu nhóm hàng thủy sản của Việt Nam ra thị trường nước ngoài giảm 3,5% so với tháng 12/2018 nhưng tăng 10,7% so với cùng tháng năm 2018, đạt gần 741,14 tỷ USD.
Việt Nam và Myanmar đã thiết lập quan hệ ngoại giao hơn 40 năm qua và không ngừng phát triển. Myanmar là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển, với nguồn tài nguyên phong phú và diện tích lớn thứ hai trong ASEAN. Những năm gần đây quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Myanmar ngày càng khả quan.
Dù xuất khẩu hàng hóa chững lại trong tháng đầu tiên của năm 2019, tuy nhiên, dự báo xuất khẩu trong năm nay tiếp tục có nhiều thuận lợi. Vì thế, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 265 tỷ USD mà Bộ Công Thương đặt ra hoàn toàn có thể đạt được.
Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong tháng đầu tiên của năm 2019, cả nước xuất khẩu 486.712 tấn dầu thô, thu về 225,79 triệu USD, tăng 39% về lượng và tăng 49% về kim ngạch so với tháng cuối năm 2018 và cũng tăng 26% về lượng và tăng 10% về kim ngạch so với tháng 1/2018.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng đầu tiên của năm 2019 nhập khẩu xăng dầu về Việt Nam sụt giảm rất mạnh so với tháng đầu năm 2018, giảm 50,1% về lượng và giảm 55,3% về kim ngạch, đạt 643.665 tấn, tương đương 353,64 triệu USD; và so với tháng cuối năm 2018 xăng dầu nhập khẩu cũng giảm 7,9% cả về lượng và kim ngạch.
Nếu như trong tháng cuối năm 2018, xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu giảm 7,6% thì nay tháng đầu năm 2019 đã lấy lại đà tăng trưởng 10,1% so với tháng 12/2018 đạt 49,8 triệu USD.
Xuất khẩu thức ăn gia súcXuất khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 12/2018 cả nước xuất khẩu 153.906 tấn cà phê, đạt 275,77 triệu USD, tăng 11,4% về lượng và tăng 7,1% về kim ngạch so với tháng 11/2018, nhưng giảm 2,8% về lượng và giảm 13,4% về kim ngạch so với tháng 12/2017; nâng tổng lượng cà phê xuất khẩu cả năm 2018 lên 1,88 triệu tấn, thu về gần 3,54 tỷ USD, tăng 30,3% về lượng và tăng 9% về kim ngạch so với năm 2017.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự