Theo VFA, xuất khẩu gạo của cả nước trong 6 tháng đầu năm nay đạt trên 2,65 triệu tấn, trị giá FOB 1,14 tỷ USD. So với năm 2015, sản lượng xuất khẩu giảm gần 2% nhưng trị giá FOB lại tăng 1,13%.

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 8 tháng đầu năm 2018, nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc vào Việt Nam tăng 3,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, trị giá trên 31,05 tỷ USD, chiếm 20,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa các loại của cả nước.
Ở chiều ngược lại, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc tăng mạnh 29,5%, đạt 11,93 tỷ USD. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc chỉ bằng 1/3 kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này. Do đó, mức nhập siêu từ Hàn Quốc 8 tháng đầu năm đã lên tới 19,12 tỷ USD.
Nhóm hàng nhập khẩu nhiều nhất từ Hàn Quốc là máy vi tính, điện tử, chiếm 36,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa các loại từ Hàn Quốc, đạt 11,35 tỷ USD, tăng 37,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng nhập khẩu đứng thứ 2 về kim ngạch đạt 4,14 tỷ USD, chiếm 13,3%, giản mạnh 46% so với cùng kỳ năm ngoái. Đứng thứ 3 là nhóm điện thoại và linh kiện trị giá 3,45 tỷ USD, chiếm trên 11%, tăng 1,4%;
Ngoài ra, còn số nhóm hàng cũng đạt kim ngạch cao trên 1 tỷ USD gồm có: vải may mặc trị giá 1,45 tỷ USD, tăng 9,2%; xăng dầu trị giá 1,58 tỷ USD, tăng 34,9%; sản phẩm nhựa 1,15 tỷ USD, tăng 10,2%; kim loại thường 1,1,01 tỷ USD, tăng 5,8%; nguyên liệu nhựa 1,08 tỷ USD, tăng 15,2%.
Kim ngạch nhập khẩu đa số các loại hàng hóa từ Hàn Quốc trong 8 tháng đầu năm 2018 đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái; Trong đó, một số nhóm hàng tăng mạnh về kim ngạch như: Khí gas tăng 150,9%, trị giá 3,53 triệu USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 124,8%, trị giá 343,82 triệu USD; nhóm hàng bông tăng 102,2%, trị giá 4,39 triệu USD; quặng và khoáng sản tăng 82,8%, trị giá 10,86 triệu USD; rau quả tăng 93,8%, trị giá 14,42 triệu USD; nguyên phụ liệu dược phẩm tăng 72,3%, đạt 3,78 triệu USD.
Ngược lại, nhập khẩu ô tô từ Hàn Quốc giảm rất mạnh 85,9% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ đạt 17,91 triệu USD. Bên cạnh đó, nhập máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phân bón, gỗ và sản phẩm gỗ cũng giảm mạnh, với mức giảm tương ứng là 46%, 35,4%, 28,7% và 26,3% về kim ngạch.
Nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc 8 tháng đầu năm 2018
ĐVT: USD
Nhóm hàng | T8/2018 | +/- so với T7/2018(%)* | 8T/2018 | +/- so với cùng kỳ (%)* |
Tổng kim ngạch NK | 4.308.323.767 | 7,67 | 31.053.549.501 | 3,27 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 1.540.168.515 | 18,11 | 11.350.894.358 | 37,46 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác | 432.666.495 | -26,6 | 4.140.887.032 | -46,04 |
Điện thoại các loại và linh kiện | 875.280.932 | 52,04 | 3.452.931.614 | 1,44 |
Xăng dầu các loại | 101.998.753 | -25,11 | 1.576.605.820 | 34,86 |
Vải các loại | 148.439.580 | -28,13 | 1.449.529.963 | 9,17 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 168.957.441 | 3,88 | 1.148.462.440 | 10,24 |
Chất dẻo nguyên liệu | 144.765.289 | 7,89 | 1.078.662.899 | 15,19 |
Kim loại thường khác | 125.240.610 | -0,56 | 1.012.710.787 | 5,8 |
Sắt thép các loại | 112.961.834 | -11,23 | 965.754.119 | 22,44 |
Linh kiện, phụ tùng ô tô | 76.816.770 | 39,64 | 549.541.746 | 3,62 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày | 62.418.584 | -20,65 | 519.861.125 | 0,62 |
Sản phẩm hóa chất | 59.417.908 | 0,65 | 432.152.867 | 5,86 |
Sản phẩm từ sắt thép | 57.289.395 | 10,02 | 428.347.351 | -0,34 |
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện | 40.867.981 | 0,78 | 343.815.114 | 124,83 |
Hóa chất | 35.559.930 | 5,6 | 281.388.102 | 27,02 |
Giấy các loại | 22.583.499 | -4,07 | 188.217.730 | 31,42 |
Sản phẩm từ kim loại thường khác | 17.886.440 | -11,36 | 147.853.355 | 0,03 |
Cao su | 17.527.027 | 11,62 | 137.003.934 | -2,3 |
Xơ, sợi dệt các loại | 17.869.677 | 3,42 | 129.350.054 | 14,93 |
Sản phẩm khác từ dầu mỏ | 13.754.331 | -27,21 | 116.958.323 | 36,92 |
Dược phẩm | 14.081.170 | -19,54 | 107.491.869 | -13,3 |
Dây điện và dây cáp điện | 11.619.545 | -8,64 | 106.126.757 | 24,58 |
Sản phẩm từ cao su | 9.142.121 | -3,77 | 76.115.123 | -21,46 |
Hàng thủy sản | 6.792.571 | 18,63 | 54.196.054 | 66,6 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh | 6.346.104 | 1,18 | 47.841.783 | -8,93 |
Sản phẩm từ giấy | 4.524.509 | -18,52 | 45.239.704 | 15,57 |
Hàng điện gia dụng và linh kiện | 4.425.997 | -1,92 | 41.331.796 | 5,66 |
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm | 6.678.401 | 44,35 | 36.938.620 | 13,18 |
Phân bón các loại | 6.999.641 | 87,07 | 36.907.657 | -28,65 |
Thức ăn gia súc và nguyên liệu | 4.029.781 | -7,86 | 32.863.954 | 39,72 |
Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh | 2.875.495 | -27,72 | 31.602.291 | 31,1 |
Phương tiện vận tải khác và phụ tùng | 191.630 | -98,22 | 29.518.291 | -35,44 |
Chế phẩm thực phẩm khác | 2.956.361 | -14,93 | 23.153.670 | 28,05 |
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu | 2.756.633 | -34,54 | 22.451.629 | -18,47 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc | 2.687.063 | 17,72 | 18.693.057 | 36,59 |
Ô tô nguyên chiếc các loại | 7.134.609 | 90,07 | 17.921.466 | -85,88 |
Hàng rau quả | 1.499.667 | 100,07 | 14.422.225 | 93,84 |
Quặng và khoáng sản khác | 2.178.468 | 176,67 | 10.862.438 | 82,77 |
Sữa và sản phẩm sữa | 179.719 | -79,82 | 8.674.145 | 44,13 |
Gỗ và sản phẩm gỗ | 555.012 | 18,92 | 5.085.378 | -26,33 |
Bông các loại | 581.078 | 35,32 | 4.387.894 | 102,16 |
Nguyên phụ liệu dược phẩm | 69.000 | -86,18 | 3.783.816 | 72,25 |
Khí đốt hóa lỏng | 144.459 | -33,21 | 3.528.175 | 150,87 |
Dầu mỡ động, thực vật | 285.292 | -14,69 | 2.683.149 | -20,24 |
(*Vinanet toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Theo VFA, xuất khẩu gạo của cả nước trong 6 tháng đầu năm nay đạt trên 2,65 triệu tấn, trị giá FOB 1,14 tỷ USD. So với năm 2015, sản lượng xuất khẩu giảm gần 2% nhưng trị giá FOB lại tăng 1,13%.
Bộ Công Thương cho biết để đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 10% là nhiệm vụ hết sức nặng nề, trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm.
Nhập khẩu ô tô nguyên chiếc tăng tháng thứ 3 liên tiếp… Trên thị trường, qua khảo sát, giá xe bán đến tay khách hàng cơ bản vẫn ổn định, so với thời điểm trước ngày 1/7/2016.
Việt Nam xuất khẩu hàng xơ,sợi dệt chủ yếu sang thị trường Trung Quốc, chiếm tới 54% thị phần, đạt 232,6 nghìn tấn, trị giá 581,5 triệu USD, tăng 18,48% về lượng và tăng 6,24% về trị giá so cùng kỳ.
Sau sự phục hồi trong tháng 4, XK cá ngừ của Việt Nam lại giảm. Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, giá trị XK cá ngừ trong tháng 5 chỉ đạt gần 38,45 triệu USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ. Chính vì vậy, tổng giá trị XK cá ngừ của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm chỉ đạt 179,9 triệu USD, vẫn giảm hơn 4% so với cùng kỳ.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, XK tôm Việt Nam sang Anh 5 tháng đầu năm nay vẫn tăng 21,6% đạt trên 44 triệu USD. Tuy nhiên, XK tôm tháng 5/2016 đạt 6,8 triệu USD; giảm 27,7% so với tháng 5/2015. Đây là tháng đầu tiên kể từ đầu năm, XK tôm sang thị trường này giảm so với cùng kỳ năm trước.
Số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam cho thấy, tháng 5/2016, kim ngạch xuất khẩu hàng mây, tre, cói đạt 19,8 triệu USD, tăng 5% so với tháng liền kề trước đó, nâng kim ngạch xuất khẩu hàng mây, tre, cói 5 tháng 2016 lên 106,7 triệu USD, tăng 0,8% so với cùng kỳ 2015.
Số liệu sơ bộ từ TCHQ Việt Nam cho thấy, tháng 5/2016, xuất khẩu than đá tăng cả lượng và trị giá so với tháng 4, tăng lần lượt 210,2% và tăng 294,7% tương đương với 116 nghìn tấn, trị giá 14,6 triệu USD – đây là tháng tăng thứ ba liên tiếp sau 2 tháng giảm.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), 6 tháng đầu năm 2016, tình hình xuất khẩu (XK) gạo tương đối khả quan. Quan trọng hơn, cơ cấu gạo XK đã có bước chuyển biến tích cực khi tỷ lệ gạo thơm, gạo chất lượng đang tăng cao.
Xuất khẩu các mặt hàng thủy sản trong những tháng đầu năm tăng trưởng mạnh là tín hiệu đáng mừng song vẫn còn ẩn chứa nhiều mối lo.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự