Việc thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện sở hữu Nhà nước là thực hiện theo Nghị quyết XII của Đảng nhằm tách chức năng sở hữu tài sản, vốn Nhà nước với chức năng quản lý.

Nợ công trong nước chủ yếu qua phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) và đa số do các NHTM nắm giữ. Nguyên nhân là do hệ thống tài chính hiện đang phụ thuộc khối NH, trong khi thị trường chứng khoán và trái phiếu chưa phát triển.
Do đó, yêu cầu trước mắt là tăng cường năng lực tài chính của các NHTM, sau đó phát triển đồng bộ và tiếp tục mở rộng quy mô các thị trường trong hệ thống tài chính… Đây là một trong những đề xuất của BIDV nhằm giải quyết vấn đề nợ công đang gia tăng nhanh.
Vay nợ nhiều, chi tiêu chưa hiệu quả
Trong giai đoạn 2011-2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm. Đến cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội. Đáng lưu ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt.
Nếu tính nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế thì sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: NHNN, các DNNN, tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội và một số địa phương. Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia đưa ra ước tính và cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%. Tỷ lệ nợ công của Việt Nam cao chủ yếu do khó khăn trong quản lý nợ công.
Việt Nam cần xây dựng và công bố kế hoạch tài khóa trung hạn nhằm cải thiện công tác quản lý nợ công theo hướng bền vững
Trước đây, nợ công hầu hết là nợ nước ngoài hay vốn vay ODA với lãi suất từ 1% đến dưới 3%. Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên nợ nước ngoài có mức độ ưu đãi giảm dần.
Vì vậy, nợ công dịch chuyển sang nguồn vay trong nước, tăng từ 40% năm 2011 lên 57,1% năm 2015. Đặc biệt các khoản vay trong nước chủ yếu qua phát hành TPCP với kỳ hạn ngắn (1-3 năm) chiếm khoảng 77% khối lượng phát hành hàng năm.
Hệ quả là, từ năm 2014, một lượng lớn TPCP đến hạn thanh toán và Chính phủ đang phải liên tục phát hành TPCP mới do NSNN không thể đáp ứng. Vay nợ nhiều nhưng chúng ta sử dụng nợ công còn bất cập, hiệu quả sử dụng không cao. Bên cạnh đó, một phần đáng kể của nợ công được sử dụng để trả nợ thay cho đầu tư phát triển.
Những bất cập trong quản lý và chi tiêu đã dẫn đến rủi ro liên quan đến nợ công hiện nay. Theo các tổ chức quốc tế và trong nước, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp. Tuy nhiên, trên thực tế, nợ công vẫn đang là vấn đề cấp bách với những điểm đáng lo ngại: Chỉ tiêu nợ phải trả (nợ gốc và lãi) đã ở mức 22,3% có nguy cơ tiến sát vượt ngưỡng cảnh báo (25%).
Cùng với đó, nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh trong khi nguồn trả nợ công không bền vững. Và những bất cập từ quản lý nợ công đã dẫn đến tác động tiêu cực tới nền kinh tế: Các khoản lãi và một phần nợ gốc phải trả trong ngắn hạn đang ngày càng tăng cao, gây sức ép lên cân bằng NSNN. Do đó, Chính phủ đang phải liên tục phát hành TPCP để bù đắp thâm hụt NSNN. Hệ quả là, quy mô nợ công tăng theo tần suất và quy mô phát hành TPCP…
Ai hưởng lợi, người đó trả nợ!
Để đạt được độ an toàn nợ công, theo khuyến nghị của WB và IMF, Việt Nam cần xây dựng và công bố kế hoạch tài khóa trung hạn nhằm cải thiện công tác quản lý ngân sách và nợ công theo hướng bền vững. Cụ thể: Đến năm 2018, tỷ lệ nợ công/GDP là dưới 63%, các chỉ tiêu nợ Chính phủ không quá 55% và nợ nước ngoài/GDP dưới ngưỡng kiểm soát 50%.
Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể cho vay lại)/thu NSNN; và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài/ tổng giá trị xuất khẩu cùng dưới 25%. Dự trữ ngoại hối/tổng dư nợ nước ngoài đảm bảo theo khuyến nghị của WB là 200% hoặc tối thiểu 3 tháng kim ngạch nhập khẩu (theo khuyến nghị IMF).
Bội chi ngân sách đảm bảo dưới 5% GDP. Xây dựng định mức tiết kiệm chi phí thường xuyên, trong đó chi cho hành chính sự nghiệp từ ngân sách Trung ương tới địa phương tiết kiệm từ 8 - 10%/năm.
Đến năm 2020 cần giảm tiếp tỷ lệ nợ công, giảm tỷ trọng chi thường xuyên; đồng thời tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển. Để đạt được những mục tiêu này, Trung tâm nghiên cứu của BIDV đề xuất bốn giải pháp, tập trung vào các vấn đề: Nâng cao năng lực quản lý nợ công; Nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công và đầu tư công; Tăng cường kỷ luật NSNN và phối hợp chính sách; và Phát triển nội lực của nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Để nâng cao năng lực quản lý nợ công, BIDV cho rằng Chính phủ nên xem xét thành lập Ủy ban giám sát và kiểm soát nợ công trực thuộc Quốc hội). Bộ Tài chính cần đưa ra văn bản hướng dẫn thi hành luật về nợ công, quản trị rõ ràng; Xây dựng hệ thống quốc gia về khai báo các khoản vay… Và để đổi mới, nâng cao hiệu quả trong quản lý vốn vay nước ngoài thì cần thông qua một đầu mối cho vay và quản lý vốn ODA.
Đầu mối này có thể là một định chế tài chính có kinh nghiệm trong việc quản lý các khoản vay nước ngoài, năng lực về tài chính để có thể chịu được rủi ro không ảnh hưởng đến NSNN.
Đặc biệt, để nâng cao ý thức, trách nhiệm trong quản lý, sử dụng nợ công, BIDV cho rằng cần tiến tới áp dụng quy tắc “ai hưởng lợi, người đó trả nợ”. Tư nhân hóa các dự án công trên cơ sở đấu thầu công khai, cạnh tranh về giá cả, chất lượng và gắn với trách nhiệm cá nhân.
Chính phủ, các bộ ngành và DN cần đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu, nhất là tái cơ cấu DNNN và đầu tư công; Chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu. Và chúng ta phải sớm giải quyết một thực trạng tồn tại đã lâu là sự mất cân bằng của hệ thống tài chính.
Cần nhanh chóng có biện pháp phát triển đồng bộ và tiếp tục mở rộng quy mô các thị trường trong hệ thống tài chính, tránh tình trạng gánh nặng tài trợ vốn đầu tư phát triển kinh tế vẫn chủ yếu ở trên vai NH và họ lại cũng đồng thời là những “nhà đầu tư” lớn của TPCP như hiện nay.
Thu Hương
(Thời báo Ngân hàng)
Việc thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện sở hữu Nhà nước là thực hiện theo Nghị quyết XII của Đảng nhằm tách chức năng sở hữu tài sản, vốn Nhà nước với chức năng quản lý.
Để tạo thuận lợi cho một số hoạt động đầu tư, đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế đảm bảo thống nhất, đồng bộ, phù hợp với pháp luật về đầu tư... Tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thuế XK, thuế NK (sửa đổi) đã quy định rất rõ về miễn thuế đối với hàng hóa NK của những dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và một số ngành nghề đặc thù.
Thực tế thời gian qua cho thấy, trong tất cả các giải pháp hỗ trợ DN thì phát triển công nghệ tuy đã được chú trọng nhưng diễn biến còn chậm.
Cách hỗ trợ thật sự thiết thực cho DN là sớm loại bỏ hàng loạt điều kiện kinh doanh đang tạo ra một môi trường đầu tư bất bình đẳng giữa các ông chủ lớn và các DNNVV, cũng như làm tăng thêm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính.
Số luật sư sẽ giảm mạnh, công nghiệp ôtô truyền thống sẽ khủng hoảng, nhu cầu bất động sản sẽ thay đổi, và còn gì nữa?...
Tiền sử dụng đất (SDĐ) đang là gánh nặng của doanh nghiệp (DN) và người mua nhà. Nó cũng là “ẩn số” mà nhà đầu tư không thể tiên lượng trước khi quyết định đầu tư và chính điều này đã tạo ra cơ chế xin-cho.
Trong 5 năm vừa qua, nợ công tăng bình quân 16,7%/năm.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa ký ban hành chỉ thị về việc tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2016.
Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tiếp tục thực hiện các biện pháp bảo đảm ổn định các cân đối vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
Việt Nam có khoảng 40 quỹ tài chính Nhà nước, được thành lập nhằm hỗ trợ cho DN trong nước phát triển sản xuất. Tuy nhiên, hầu hết các DN tư nhân lại chẳng nhận được sự hỗ trợ nào. Trong khi đó, chẳng cần một quỹ nào nhưng khối FDI lại được nhiều ưu đãi rất lớn.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự