Tuy chỉ đứng thứ hai về kim ngạch nhưng xuất khẩu mặt hàng hóa chất sang thị trường Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm nay tăng vượt trội.

-Nhóm hàng dầu mỡ động thực vật nhập khẩu từ Thái Lan tăng 395,9%, đạt 14,01 triệu USD.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5/2018 hàng hóa từ Thái Lan nhập khẩu vào Việt Nam 16% so với tháng liền kề trước đó, nhưng giảm nhẹ 0,6% so với tháng 5/2018, đạt 949,3 triệu USD. Tính chung tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Thái Lan 5 tháng đầu năm 2018 đạt trên 4,4 tỷ USD, tăng 13,3% so với 5 tháng đầu năm ngoái.
Trong khi xuất khẩu hàng hóa sang Thái Lan 5 tháng đầu năm nay đạt 2,22 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ. Như vậy, Việt Nam nhập siêu từ thị trường Thái Lan trên 2,18 tỷ USD, tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhìn chung, các loại hàng hóa nhập khẩu từ thị trường Thái Lan về Việt Nam trong 5 tháng đầu năm nay đa số đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, có 3 nhóm hàng tăng mạnh trên 100% kim ngạch là: Dầu mỡ động thực vật tăng 395,9%, đạt 14,01 triệu USD; khí gas tăng 276,8%, đạt 39,2 triệu USD; chất thơm, mỹ phẩm tăng 103,7%, đạt 46,39 triệu USD.
Bên cạnh đó, nhập khẩu nguyên phụ liệu dược phẩm, xăng dầu, kim loại thường và sản phẩm từ dầu mỏ cũng tăng mạnh, với mức tăng tương ứng 98,7%, 72,8%, 67,4% và 65,3% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Ngược lại, nhập khẩu ngô từ Thái Lan giảm mạnh nhất 81,2% so với cùng kỳ, chỉ đạt 8,32 triệu USD. Ngoài ra, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc, phân bón và thuốc trừ sâu từ thị trường này cũng giảm mạnh lần lượt là 48%, 28,9% và 26,9% về kim ngạch so với cùng kỳ.
Trong số rất nhiều chủng loại hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan thì nhóm điện gia dụng và linh kiện đứng đầu về kim ngạch, trị giá trên 509,45 triệu USD chiếm 11,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa các loại từ thị trường này, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nguyên liệu nhựa là nhóm hàng nhập khẩu lớn thứ 2 từ thị trường Thái Lan, chiếm 8,5% trong tổng kim ngạch, đạt 373,62 triệu USD, tăng 58% so với cùng kỳ.
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu đứng thứ 3 về kim ngạch, đạt 357,12 triệu USD, chiếm 8,1%, tăng 2,4%; sau đó là nhóm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 293,91 triệu USD, chiếm 6,7%, tăng 46,5%; xăng dầu đạt 281,49 triệu USD, chiếm 6,4%, tăng 72,8%.
Hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan 5 tháng đầu năm 2018
ĐVT: USD
Nhóm hàng |
T5/2018 |
% tăng giảm so với T4/2018 |
5T/2018 | % tăng giảm so với cùng kỳ |
Tổng kim ngạch NK | 949.299.696 | 15,98 | 4.400.109.623 | 13,3 |
Hàng điện gia dụng và linh kiện | 95.515.648 | -2,95 | 509.453.674 | 12,1 |
Chất dẻo nguyên liệu | 83.468.166 | 40,2 | 373.622.011 | 57,95 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác | 82.927.835 | 33,2 | 357.122.613 | 2,35 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 66.548.788 | 24,83 | 293.913.528 | 46,49 |
Xăng dầu các loại | 31.968.340 | -40,15 | 281.488.493 | 72,8 |
Hàng rau quả | 71.664.643 | 25,83 | 274.691.990 | -4,24 |
Linh kiện, phụ tùng ô tô | 44.428.541 | 9,35 | 236.086.871 | 3,89 |
Hóa chất | 43.898.723 | 84,5 | 167.254.255 | 13,04 |
Ô tô nguyên chiếc các loại | 32.407.960 | -25,35 | 149.579.054 | -47,97 |
Kim loại thường khác | 27.836.307 | -6,54 | 141.249.919 | 67,43 |
Vải các loại | 26.841.541 | 23,97 | 116.531.560 | 29,84 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày | 26.165.750 | 26,51 | 109.560.235 | 17,36 |
Sản phẩm hóa chất | 25.469.279 | 17,09 | 107.043.232 | 5,71 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 23.171.237 | 36,12 | 99.242.270 | 5,37 |
Giấy các loại | 17.549.167 | 19,8 | 78.646.958 | 15,31 |
Sản phẩm từ sắt thép | 16.622.974 | 16,29 | 75.557.798 | 21,11 |
Xơ, sợi dệt các loại | 11.680.771 | 31,09 | 53.078.533 | 23,83 |
Cao su | 9.294.834 | 34,89 | 46.842.496 | -8,89 |
Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh | 10.890.717 | 15,41 | 46.387.159 | 103,74 |
Thức ăn gia súc và nguyên liệu | 6.300.571 | -41,72 | 43.515.705 | 28,91 |
Gỗ và sản phẩm gỗ | 9.319.383 | 25,29 | 40.255.740 | -0,8 |
Khí đốt hóa lỏng | 10.480.619 | 3,49 | 39.204.117 | 276,84 |
Dây điện và dây cáp điện | 7.726.639 | 25,16 | 38.369.003 | 24,78 |
Sản phẩm từ cao su | 8.075.699 | 23,59 | 34.445.917 | 14,27 |
Sản phẩm từ giấy | 7.754.385 | 35,94 | 34.381.586 | 10,16 |
Sắt thép các loại | 9.101.865 | 124,72 | 29.848.042 | -20,89 |
Dược phẩm | 5.679.356 | -12,65 | 26.638.907 | -22,8 |
Sữa và sản phẩm sữa | 5.066.958 | 45,38 | 25.518.986 | 11,85 |
Quặng và khoáng sản khác | 4.163.648 | -30,59 | 23.459.997 | 12,48 |
Sản phẩm từ kim loại thường khác | 5.877.135 | 51,49 | 23.430.854 | -4,39 |
Sản phẩm khác từ dầu mỏ | 5.043.321 | 11,29 | 22.101.634 | 65,3 |
Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh | 4.783.565 | 51,45 | 21.085.565 | -6,9 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc | 4.848.537 | 36,98 | 18.810.015 | 24,01 |
Chế phẩm thực phẩm khác | 4.341.992 | 52,8 | 17.717.930 | 5,35 |
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu | 5.774.530 | 84,07 | 15.521.797 | -26,9 |
Dầu mỡ động, thực vật | 977.931 | -63,58 | 14.014.122 | 395,89 |
Hàng thủy sản | 2.248.011 | 34,72 | 9.096.655 | 16,62 |
Ngô | 1.189.715 | -21,45 | 8.319.227 | -81,22 |
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện | 1.058.718 | -3,76 | 5.732.287 | 52,72 |
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm | 971.413 | 39,68 | 3.852.825 | 7,61 |
Phân bón các loại | 272.738 | -70,12 | 2.773.654 | -28,91 |
Nguyên phụ liệu dược phẩm | 136.541 | 15,58 | 847.051 | 98,69 |
Nguyên phụ liệu thuốc lá |
| -100 | 48.721 | -8,63 |
(Vinanet tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Tuy chỉ đứng thứ hai về kim ngạch nhưng xuất khẩu mặt hàng hóa chất sang thị trường Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm nay tăng vượt trội.
Tuy là nhóm hàng chỉ đứng thứ 14 trong bảng kim ngạch, nhưng so với cùng kỳ năm 2017 sắt thép xuất khẩu sang UAE tăng mạnh, mặc dù lượng xuất suy giảm.
Sau khi suy giảm trong tháng 4/2018, nay sang tháng 5 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng sản phẩm từ chất dẻo đã lấy lại đà tăng trưởng, tăng 9,9% so với tháng liền kề trước đó, đạt 258,3 triệu USD, nâng kim ngạch tính từ đầu năm đến hết tháng 5/2018 nhóm hàng này lên 1,1 tỷ USD, tăng 19,2% so với cùng kỳ 2017.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ, kim ngạch xuất khẩu đá quý, kim loại quý và sản phẩm trong tháng 5/2018 đạt 65,4 triệu USD, tăng 42,2% so với tháng 4/2018 nâng kim ngạch 5 tháng đầu năm 2018 lên 239 triệu USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Xuất khẩu thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2018 đều tăng trưởng kim ngạch ở hầu khắp các thị trường, chiếm 54%.
Năm 2017 Tiền Giang sản xuất được hơn 200.000 tấn sầu riêng nhưng khoảng 70% được xuất tươi, theo đường tiểu ngạch qua Trung Quốc.
-Phần lớn các nhóm hàng nhập từ Trung Quốc đều tăng kim ngạch; trong đó nhóm máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng mạnh nhất 136,9%, đạt 309,38 triệu USD.
Australia và các nước Đông Nam Á là hai thị trường chủ lực xuất khẩu sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ của Việt Nam. Kim ngạch từ hai thị trường này chiếm 5,4% tỷ trọng.
Nhập khẩu than từ Nhật Bản tăng đột biến gấp 371,8 lần về lượng và tăng gấp 134,1 lần về trị giá so với cùng kỳ.
Xuất khẩu rau quả Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong 2 năm trở về đây khi kim ngạch ngày càng tăng, thậm chí vượt gạo, nông sản chủ lực. Thế nhưng, một tỉ lệ không nhỏ trong con số này là hàng tạm nhập, tái xuất từ Thái Lan.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự