Chúng ta vẫn thường nghe về “giấc mơ Mỹ” hay “giấc mộng Trung Hoa”, nhưng dường như các giấc mơ Miến Điện, giấc mơ Lào, Campuchia hay giấc mơ Việt Nam vẫn còn ít được biết đến.

Khi được hỏi tại sao các thỏa thuận ràng buộc giữa công ty Nga và Trung Quốc bị đình trệ quá lâu, Bộ trưởng Tài nguyên và môi trường Nga chỉ trả lời ngắn gọn: “Vì mọi người cẩn thận”.
Thành quả từ chuyến thăm cuối tuần qua của Tổng thống Nga Vladimir Putin tới Bắc Kinh là 5 thỏa thuận khung về hợp tác năng lượng.
Tuy nhiên nhìn lại lịch sử, hầu hết các thỏa thuận trên có thể sẽ không kết “trái ngọt”, Bloomberg nhận xét.
Hầu hết các thỏa thuận được khởi xướng trong chuyến thăm giữa Bắc Kinh và các công ty dầu khí nhà nước Nga là phi ràng buộc (non-binding).
“Số lượng thỏa thuận tăng theo cấp số nhân với tốc độ chóng mặt. Nhưng thực tế cho thấy cứ 10 thỏa thuận thì chỉ có nhiều nhất 1 đến 2 thỏa thuận đạt được hợp đồng cuối cùng”, ông Sergei Tsyplakov, giám đốc chi nhánh ngân hàng Sberbank tại Trung Quốc, cho biết.
Đóng băng thỏa thuận
Nga đang xoay trục về Trung Quốc – thị trường tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới, để xoa dịu tác động từ lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu.
Nga cần vốn và thị trường mới để kéo nền kinh tế khỏi bờ vực khủng hoảng lần đầu tiên kể từ năm 2009. Ngược lại, Trung Quốc lại đang chần chừ trước những thương vụ mới trong bối cảnh ngành công nghiệp nước này đang bị quá tải công suất, hệ quả từ thị trường bất động sản xì hơi và chứng khoán bất ổn.
Gazprom - công ty xuất khẩu khí đốt lớn nhất thế giới – cho biết đã trì hoãn ký kết hợp đồng cung cấp khí cho Trung Quốc đến năm 2016. Theo đó, Nga sẽ dẫn nhiên liệu đến Trung Quốc từ các mỏ dầu ở Tây Siberia. Thương vụ trị giá 170 tỷ USD này được ông Putin khởi xướng 16 tháng trước, đáng lẽ sẽ biến Bắc Kinh trở thành khách hàng lớn nhất của Moscow.
Thay vào đó, Gazprom ký biên bản ghi nhớ với Trung Quốc về đường ống khác xuất phát từ khu vực viễn Đông tại Nga, một dự án có quy mô nhỏ hơn, lãnh đạo Gazprom cho hay.
Các thỏa thuận khung nhiều khi rơi vào tình trạng bị “đắp chiếu”. Thấm thoát đã một năm trôi qua kể từ khi công ty Rosneft của Nga ký biên bản chấp thuận với công ty Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (CNPC). Theo đó, hai công ty sẽ liên doanh phát triển Vankor - mỏ dầu lớn nhất của Nga từ thời Liên bang Xô Viết.
Trong khi các cuộc đàm phán vẫn kéo dài, ONGC Videsh – công ty con của nhà khai thác dầu khí lớn nhất Ấn Độ - đã nhanh chóng ký thỏa thuận mua lại 15% vốn cổ phần Rofneft trị giá khoảng 1,5 tỷ USD.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang trì hoãn ký kết thỏa thuận khung hợp tác đối với dự án Taas-Yuryah. Dự án tại miền Đông Siberia được CNPC và Rosneft ký kết vào tháng 10/2013.
Gần 2 năm sau, Rosneft bán 20% cổ phần cho công ty dầu khí đa quốc gia của Anh BP Plc. Sau đó tiếp tục chấp thuận bán 29% cổ phần cho công ty dầu khí tư nhân Trung Quốc là Skyland Petroleum. Trong khi đó, CNPC vẫn chưa “đả động” gì đến quyền mua 49% cổ phần từ Rosneft.
“Cẩn thận”
Mặc dù “án binh bất động”, Trung Quốc vẫn tung ra các lời hứa hẹn tích cực. Chủ tịch tập đoàn dầu khí Trung Quốc Sinopec, ông Vương Thiên Phú khẳng định công ty mình đang tìm kiếm các tài sản nước ngoài giá trị cao để thâu tóm.
Tại Bắc Kinh, Sinopec và Rosneft đã thống nhất về một dự án liên doanh tiềm năng, nhắm tới phát triển hai mỏ dầu tại Đông Siberia. Nếu kế hoạch được xúc tiến, Sinopec sẽ được quyền mua tới 49% cổ phần dự án.
Novatek - nhà sản xuất khí đốt lớn thứ nhì của Nga - cũng đồng ý bán 9,9% cổ phần dự án khí hóa lỏng Yamal cho Quỹ Con đường tơ lụa của chính phủ Trung Quốc. Nếu thương vụ thành công, cổ phần của Bắc Kinh trong dự án khí hóa lỏng đầu tiên của Nga sẽ tăng lên gần 7%, so với mức 20% của CNPC.
Khi được hỏi tại sao các thỏa thuận ràng buộc giữa công ty Nga và Trung Quốc bị đình trệ quá lâu, Bộ trưởng Tài nguyên và môi trường Nga Sergei Donskoi chỉ trả lời ngắn gọn: “Vì mọi người cẩn thận”.
Theo LỀ PHƯƠNG
BizLIVE
Chúng ta vẫn thường nghe về “giấc mơ Mỹ” hay “giấc mộng Trung Hoa”, nhưng dường như các giấc mơ Miến Điện, giấc mơ Lào, Campuchia hay giấc mơ Việt Nam vẫn còn ít được biết đến.
Các cuộc ngoại giao con thoi vẫn đang tiếp diễn rốt ráo, đặc biệt tại Mỹ. Ai cũng thấy rằng cuộc khủng hoảng vùnh Vịnh nếu kéo dài, không chỉ Qatar bị thiệt hại.
Đây là giai đoạn phát triển đồng bộ tốt nhất thế giới giữa các nền kinh tế phát triển và mới nổi trong thập kỷ này, thời điểm có thể làm giảm sự biến động của thị trường toàn cầu. Tuy vậy, vẫn còn một “đám mây đen” đang kéo tới đằng sau khung cảnh tươi đẹp này.
Cổ phần hóa sâu rộng nền kinh tế là bước đi chủ chốt.
Cuộc khủng hoảng chưa từng có tại vùng Vịnh sau khi một loạt quốc gia trong khu vực do Saudi Arabia dẫn đầu đồng loạt cắt quan hệ ngoại giao, thương mại và vận tải với Qatar hôm 5/6 vẫn chưa có hướng giải quyết.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đang dần rút khỏi trường quốc tế, để lại một khoảng trống cho quốc gia đông dân nhất thế giới lấp đầy.
Việc 5 quốc gia Arab là Saudi Arabia, Ai Cập, Bahrain, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) và Yemen cắt đứt quan hệ ngoại giao với Qatar từ ngày 5/6 đang là cuộc khủng hoảng chính trị lớn nhất tại khu vực Vùng Vịnh hiện nay.
Sự thiếu rõ ràng về kích cỡ gói kích thích tài chính sắp tới của Mỹ và sự tăng trưởng tín dụng trong nước nhanh chóng mặt của Trung Quốc là những rủi ro tác động đến triển vọng kinh tế châu Á, một quan chức cao cấp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho biết.
Trái với điều nhiều người nghĩ, Trung Quốc giờ không còn là nơi sản xuất giá rẻ như trước. Chi phí đi lên buộc các nhà sản xuất phải tìm cách di chuyển nhà máy đến những nước khác.
Hàng hóa “Made in China” là làn sóng đã lan tỏa trên khắp thế giới nhờ mức giá rẻ do Trung Quốc tận dụng được lợi thế về chi phí nhân công. Tuy nhiên, điều này đang thay đổi. Theo CNBC, giờ là thời của “Made in US”, nói đúng hơn là thời của những sản phẩm do người Trung Quốc sản xuất nhưng là trên đất Mỹ.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự