Theo The Nation, tập đoàn vật liệu xây dựng số 1 Thái Lan SCG, doanh nghiệp đã đầu tư 700 triệu USD vào Việt Nam kể từ năm 1992, đang có kế hoạch tăng cường đầu tư hơn nữa vào Việt Nam, đặc biệt là trong mảng xi măng và hóa dầu đầu dòng.

Trưởng Ban Kinh tế T.Ư Vương Đình Huệ vừa có bài viết phân tích “Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, trong đó nhấn mạnh các nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong thời kỳ mới.
Quyết định tính năng suất của một quốc gia
Theo Trưởng Ban Kinh tế T.Ư Vương Đình Huệ, năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp các thể chế, chính sách và nhân tố quyết định mức độ hiệu quả và tính năng suất của một quốc gia. Một nền kinh tế có năng suất, hiệu quả là nền kinh tế có năng lực sử dụng, khai thác tốt các nguồn lực có hạn. Nói cách khác, bản chất của năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực vận hành nền kinh tế có hiệu quả, với chi phí hợp lý nhất mang lại kết quả thịnh vượng và bền vững tối đa nhất. Năng lực cạnh tranh quốc gia có mối tương quan mật thiết với môi trường kinh doanh. Hoàn thiện và đảm bảo hiệu lực, hiệu quả thực thi các quy định pháp luật cũng như các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi hoạt động kinh doanh không chỉ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, mà còn thúc đẩy phân bổ nguồn lực một cách minh bạch, và do vậy, trực tiếp và gián tiếp nâng cao năng suất của nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nền kinh tế có được phát triển bền vững hay không phụ thuộc nhiều vào năng lực cạnh tranh quốc gia cao hay thấp cũng như mức độ thuận lợi hay kém thuận lợi của môi trường kinh doanh.
Hiện nay trên thế giới, Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới được công nhận rộng rãi là chỉ số phổ biến dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế trong tương quan so sánh toàn cầu. Ở Việt Nam, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đã được đề cập nhất quán trong các chủ trương, chính sách của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua 30 năm đổi mới, năng lực cạnh tranh của Việt Nam có thay đổi và được cải thiện dần nhưng so với thế giới và kể cả khu vực ASEAN vẫn còn ở mức thấp. Theo báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu CGI, năm 2015, Việt Nam có thứ hạng 56/140 nền kinh tế, đạt 4,3/7 điểm, tăng 12 bậc so với năm 2014 và là thứ hạng cao nhất của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015. Các lĩnh vực Việt Nam có thứ hạng thấp ở nửa cuối, trung bình và dưới trung bình gồm: Thể chế (85/140); Phát triển thị trường tài chính(84/140); Đào tạo và giáo dục sau tiểu học (95/140); Cơ sở hạ tầng(76/140); Trình độ kinh doanh (100/140), Sẵn sàng công nghệ(92/140), Đổi mới sáng tạo (73/140).
Qua phân tích các bộ chỉ số, Ban Kinh tế Trung ương thấy rằng một số nhóm nhân tố cần phải tập trung phân tích, đánh giá và có giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, gồm: Một là, nhóm các nhân tố về thể chế kinh tế và thực thi thể chế kinh tế, gồm: (1) Các quy định pháp luật và thực thi pháp luật trong kinh doanh và cạnh tranh; (2) Vấn đề cải cách tư pháp; phòng, chống tham nhũng, cải cách hành chính công. Hai là,nhóm các vấn đề kinh tế vĩ mô, gồm: (1) Tính bền vững môi trường kinh tế vĩ mô; (2) Thực trạng về năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam. Ba là, nhóm các vấn đề tiếp cận nguồn lực và thị trường, gồm: (1) Phát triển các nguồn lực cơ bản phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; (2) Phát triển các yếu tố thị trường và các loại thị trường; (3) Năng lực hội nhập kinh tế quốc tế. Bốn là, nhóm các vấn đề về phát triển doanh nghiệp và khởi nghiệp. Năm là, nhóm các vấn đề liên quan đến lĩnh vực an ninh, an toàn cũng như các yếu tố xã hội như y tế và giáo dục.
Cũng theo Ông Vương Đình Huệ, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu; có quan hệ ngoại giao với 185 nước, quan hệ kinh tế với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 14 nước, đối tác toàn diện với 10 nước; cho đến nay đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Việt Nam đã ký kết 10 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương; vừa hoàn tất đàm phán 02 FTA (Liên minh châu Âu và TPP); đang tích cực đàm phán 03 FTA khác. Việc tham gia đàm phán, ký kết các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế song cũng đan xen rất nhiều thách thức đến từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế, nhất là đến nay Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng dệt may và da giầy. Do vậy, việc đề ra các giải pháp thiết thực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là rất cần thiết nhằm tranh thủ hiệu quả cơ hội và lợi ích của các cam kết hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển nhanh, bền vững.
5 nhóm giải pháp thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia
Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân khách quan, chủ quan và các nhóm nhân tố chủ yếu nói trên, Ban Kinh tế Trung ương kiến nghị sớm xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện tốt Đề án tổng thể về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam với những nhóm giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tăng cường thể chế và thực thi thể chế tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và cạnh tranh, hoàn thiện cơ chế phối hợp đa ngành, đa lĩnh vực giữa Trung ương và địa phương, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính công, tăng cường công khai minh bạch và phòng, chống tham nhũng. Giải quyết đồng bộ việc ban hành và thực thi các quy định pháp luật về kinh doanh và cạnh tranh.
Hai là, tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động và đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và tăng cường đối mới sáng tạo. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động quốc gia và sự đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp vào mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo.
Ba là, tăng cường tiếp cận nguồn lực và thị trường trong nước, thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ liên kết trong nước và năng lực hội nhập quốc tế. Tập trung phát triển và tăng cường tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vốn, lao động, khoa học - công nghệ, cơ sở hạ tầng và tài nguyên. Thúc đẩy các động lực cạnh tranh lành mạnh và phát huy lợi thế so sánh của các địa phương, tăng cường liên kết ngành kinh tế, chủ thể kinh tế và không gian kinh tế, vùng kinh tế, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế.
Bốn là, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam, tăng cường khởi sự doanh nghiệp. Tạo lập môi trường pháp lý đảm bảo quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Ban hành Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Công nghiệp hỗ trợ và các xây dựng chính sách phù hợp để hỗ trợ phát triển các loại hình doanh nghiệp; tăng cường hiệu quả thực hiện vai trò của Nhà nước trong định hướng phát triển hoạt động đầu tư - kinh doanh của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Phát huy vai trò của các hội, hiệp hội doanh nghiệp.
Năm là, tăng cường kết nối khu vực và coi trọng các giải pháp phát triển bền vững. Xây dựng kế hoạch, triển khai hiệu quả Chương trình Nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc về phát triển bền vững.
Theo The Nation, tập đoàn vật liệu xây dựng số 1 Thái Lan SCG, doanh nghiệp đã đầu tư 700 triệu USD vào Việt Nam kể từ năm 1992, đang có kế hoạch tăng cường đầu tư hơn nữa vào Việt Nam, đặc biệt là trong mảng xi măng và hóa dầu đầu dòng.
Mục tiêu đến năm 2035 thu nhập bình quân đầu người Việt Nam sẽ đạt 15.000-18.000 USD; tức là tăng gấp 7-8 lần so với hiện nay...
Tổng cục Thuế vừa có công văn 267/TCT-TNCN hướng dẫn về chính sách thuế đối với cá nhân kinh doanh theo hướng dẫn tại Thông tư số 92/2015/TT-BTC .
Kết thúc năm tài chính 2015, tình hình sức khỏe của các Tập đoàn Nhà nước đã có nhiều tích cực khi nhiều doanh nghiệp công bố doanh thu và lợi nhuận lớn. Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đang được đẩy nhanh là một phần nguyên nhân giúp cho hoạt động kinh doanh của các "ông lớn" này được lành mạnh và hiệu quả hơn.
Văn kiện Đại hội Đảng XII đặt mục tiêu xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, song phải theo các chuẩn phổ biến, hiện đại... khiến Chủ tịch VCCI tin rằng lựa chọn thể chế tới đây của Việt Nam sẽ đi chung con đường với nhân loại.
Theo khảo sát của Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2016 do Vienam Report thực hiện cho biết: đa số doanh nghiệp lớn Việt Nam lạc quan trước những tác động lớn khi Việt Nam hoàn tất gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Theo số liệu của Tổng cục Hải Quan, trong năm 2015, Việt Nam chi 49,5 tỷ USD để nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước.
Theo các chuyên gia, con đường đến với thành công trong quá trình hội nhập của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam còn nhiều chông gai do đang hoạt động trong một sân chơi khá tù túng về mặt phát triển bền vững cũng như kết nối với các doanh nghiệp lớn để phát triển.
Thuế, phí và quỹ bình ổn giá xăng dầu là nguyên nhân khiến giá xăng dầu bán lẻ trong nước không giảm tương ứng với thị trường thế giới
Nhập khẩu từ Hàn Quốc tăng 27,4%, đạt 27,7 tỷ USD. Điều này phản ánh xu hướng dịch chuyển hoạt động sản xuất của các tập đoàn Hàn Quốc sang Việt Nam.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự