Xuất khẩu sản phẩm nhựa quý 1/2019 đạt 807,33 triệu USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2018.

Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Indonesia trong 10 tháng đầu năm 2018 đạt gần 3 tỷ USD, tăng 24,99% so với cùng kỳ năm 2017.
Riêng tháng 10/2018 kim ngạch đạt 287,86 triệu USD, tăng 26,92% so với tháng 9/2018 và tăng 17,16% so với tháng 10/2017.
Trong rổ hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Indonesia 10 tháng đầu năm nay thì các mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD chiếm 27,2% trong đó sắt thép, gạo và điện thoại các loại chiếm thị phần lớn, chiếm lần lượt 14,1%; 12,26% và 7,68% trong đó sắt thép là mặt hàng đạt kim ngạch cao nhất 416,24 triệu USD với 526,5 nghìn tấn các loại, tăng 9,28% về lượng và 19,16% trị giá so với cùng kỳ. Riêng tháng 10/2018, đã xuất sang thị trường này 74 nghìn tấn sắt thép các loại, trị giá 55,65 triệu USD, tăng gấp 2,2 lần (tức tăng 115,7%) về lượng và tăng 97,1% về trị giá, mặc dù giá xuất bình quân giảm 8,62% so với tháng 9/2018 chỉ với 751,79 USD/tấn; còn so với tháng 10/2017 thì chỉ tăng 7,21% về lượng và 11,36% trị giá, giá xuất bình quân tăng 3,87%.
Đứng thứ hai là mặt hàng gạo – đây là mặt hàng có mức tăng nhiều nhất trong 10 tháng năm 2018, mặc dù chỉ đạt 770,9 nghìn tấn, trị giá 361,91 triệu USD, tăng gấp 49,26 lần về lượng (tức tăng 4826,31%) và gấp 65,78 lần trị giá (tức tăng 6478,04%) so với cùng kỳ.
Kế đến là điện thoại và linh kiện đạt 226,97 triệu USD, tuy nhiên so với cùng kỳ xuất khẩu nhóm hàng này sang Indonesia lại suy giảm tới 52%, mặc dù tháng 10/2018 tăng 14,31% so với tháng 9/2018 đạt 19,61 triệu USD.
Ngoài mặt hàng gạo có tốc độ tăng đột biến, thì xuất khẩu một số mặt hàng khác cũng tăng trưởng ấn tượng. Cụ thể, mặt hàng cà phê tuy chỉ đạt 119,67 triệu USD với 60,58 nghìn tấn, nhưng tăng gấp 10,18 lần (tức tăng 918%) về lượng và gấp hơn 16 lần về trị giá (tức tăng 600,48%); xăng dầu tăng gấp 5,2 lần về lượng (tức tăng 419,18%) về lượng và gấp 5,9 lần (tức tăng 488,48%) về trị giá đạt 1,51 nghìn tấn, trị giá 913,8 nghìn USD; sản phẩm gốm sứ tăng gấp 2,1 lần (tức tăng 112,32%) đạt 11,26 triệu USD.
Nhìn chung, 10 tháng đầu năm 2018 kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Indonesia đều tăng trưởng chiếm 75,75% và ngược lại mặt hàng với kim ngạch suy giảm chiếm 24,24% trong đó mặt hàng rau quả giảm nhiều nhất 75,83% chỉ với 758 nghìn USD.
Thống kê hàng hóa xuất khẩu sang Indonesia 10 tháng năm 2018
Mặt hàng | 10T/2018 | +/- so với cùng kỳ 2017 (%)* | ||
Lượng (Tấn) | Trị giá (USD) | Lượng | Trị giá | |
Tổng |
| 2.951.392.609 |
| 24,99 |
Sắt thép các loại | 526.507 | 416.240.256 | 9,28 | 19,16 |
Gạo | 770.968 | 361.911.557 | 4.826,31 | 6.478,04 |
Điện thoại các loại và linh kiện |
| 226.715.986 |
| -51,61 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác |
| 221.973.670 |
| 11,73 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện |
| 207.839.105 |
| 14,02 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày |
| 190.500.023 |
| 18,16 |
Hàng dệt, may |
| 156.543.494 |
| 38,26 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng |
| 134.681.652 |
| 27,8 |
Cà phê | 60.581 | 119.678.490 | 918 | 600,48 |
Sản phẩm từ chất dẻo |
| 87.450.567 |
| 9,46 |
Chất dẻo nguyên liệu | 51.463 | 75.295.456 | -25,96 | -17,93 |
Xơ, sợi dệt các loại | 17.662 | 56.591.678 | 30,35 | 26,22 |
Sản phẩm hóa chất |
| 55.325.952 |
| 47,54 |
Sản phẩm từ sắt thép |
| 53.580.677 |
| 12,83 |
Giày dép các loại |
| 48.259.460 |
| 35,48 |
Kim loại thường khác và sản phẩm |
| 43.232.456 |
| 16,07 |
Giấy và các sản phẩm từ giấy |
| 36.962.937 |
| 47,02 |
Vải mành, vải kỹ thuật khác |
| 27.545.230 |
| 30,28 |
Dây điện và dây cáp điện |
| 26.753.412 |
| 71,6 |
Cao su | 14.049 | 20.557.548 | 18,47 | 3,83 |
Than các loại | 151.444 | 19.766.971 | 148,87 | 175 |
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc |
| 12.360.722 |
| 23,87 |
Sản phẩm gốm, sứ |
| 11.266.792 |
| 112,32 |
Sản phẩm từ cao su |
| 11.118.585 |
| 21,75 |
Thức ăn gia súc và nguyên liệu |
| 10.068.214 |
| -38,13 |
Hóa chất |
| 9.166.535 |
| -65,11 |
Chè | 7.455 | 7.474.980 | -9,11 | 0,63 |
Hàng thủy sản |
| 3.380.252 |
| -28,82 |
Quặng và khoáng sản khác | 20.849 | 2.534.167 | -13,13 | -1,34 |
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ |
| 1.095.887 |
| -44,98 |
Xăng dầu các loại | 1.516 | 913.866 | 419,18 | 488,48 |
Hàng rau quả |
| 758.067 |
| -75,83 |
Clanhke và xi măng | 14 | 30.276 |
|
|
(*Vinanet tính toán số liệu từ TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Xuất khẩu sản phẩm nhựa quý 1/2019 đạt 807,33 triệu USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm 2018.
Quý 1/2019 xuất khẩu than đá của cả nước đạt 31.381 tấn, thu về 4,34 triệu USD, giảm mạnh 94,6% về lượng và giảm 94,2% về kim ngạch so với quý 1/2018.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu sau khi sụt giảm cả về lượng và kim ngạch trong tháng 2/2019, thì tháng 3/2019 tăng mạnh 110,5% về khối lượng và tăng 102,3% về kim ngạch so với tháng 2/2019, đạt 35.269 tấn, tương đương 89,45 triệu USD; so với tháng 3/2018 thì tăng 17,3% về lượng nhưng giảm 15,8% về kim ngạch.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sau khi sụt giảm mạnh trên 60% trong tháng 2/2019 thì sang tháng 3/2019 lại tăng rất mạnh 93,7% so với tháng liền kề trước đó, đạt 2,53 tỷ USD; so với cùng tháng năm 2018 cũng tăng 9,3%.
Trung Quốc – thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 4 tháng năm 2019, kim ngạch tăng so với cùng kỳ, trong đó nhóm hàng điện tử máy tính và linh kiện tăng gần 81%...
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, quý 1/2019 cả nước xuất khẩu gần 8,56 triệu tấn xi măng và clinker, thu về 364,57 triệu USD, tăng 0,6% về lượng và tăng 22,8% về kim ngạch so với quý 1/2018. Giá xuất khẩu tăng 22%, đạt trung bình 42,6 USD/tấn.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê trong tháng 3/2019 tăng mạnh trở lại gần 40% cả về lượng và kim ngạch sau khi giảm 38% cả về lượng và kim ngạch trong tháng trước đó.
Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ quý 1/2019 đạt gần 2,27 tỷ USD – đứng đầu về kim ngạch trong nhóm hàng xuất khẩu của ngành nông nghiệp, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó, riêng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ đạt 1,62 tỷ USD, chiếm 71,2%, tăng 19,3%.
Quý 1/2019 xuất khẩu nhóm hàng rau quả của cả nước đạt 948,87 triệu USD, giảm nhẹ 2,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Mặc dù kết thúc quý 1/2019 thương mại giữa Việt Nam và Australia ở thế nhập siêu, nhưng ngược lại Australia cũng phải nhập từ Việt Nam với kim ngạch không nhỏ trên 800 triệu USD, giảm 13,34% so với quý 1/2018, trong đó hai nhóm hàng xi măng và gạo có tốc độ tăng vượt trội.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự