Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, năm 2018 cả nước nhập khẩu 13,53 triệu tấn sắt thép, trị giá 9,89 tỷ USD, giảm 9,7% về lượng nhưng tăng 9,7% về kim ngạch so với năm 2017.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 11 tháng 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt 1,33 tỷ USD giảm 22,8% trong khi kim ngạch nhập khẩu là 257,96 triệu USD tăng 26,3% so với cùng giai đoạn năm 2017; như vậy Việt Nam xuất siêu sang Thổ Nhĩ Kỳ gần 1,08 tỷ USD.
Theo số liệu của Viện Thống kê Thổ Nhĩ Kỳ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ đạt xấp xỉ 1,83 tỷ USD trong giai đoạn 10 tháng đầu năm 2018, trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ xấp xỉ 1,58 tỷ USD giảm 33,5% trong khi kim ngạch nhập khẩu từ quốc gia này hơn 247,91 triệu USD tăng 22,9% so với cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 11 tháng 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt 1,33 tỷ USD giảm 22,8% trong khi kim ngạch nhập khẩu là 257,96 triệu USD tăng 26,3% so với cùng giai đoạn năm 2017.
Căn cứ vào số liệu thống kê từ hai quốc gia, có thể thấy rằng từ giữa quý III năm nay đến thời điểm hiện nay, tốc độ tăng của kim ngạch thương mại song phương có xu hướng chững lại khi xuất khẩu từ Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ, tuy vẫn tăng dần nhưng tăng chậm về những tháng cuối năm, đây là hệ quả từ việc đồng Lira Thổ mất giá mạnh vào giữa quý III. Đến thời điểm này tuy tỉ giá đã ổn định ở mức 5,2 Lira Thổ đổi 1 USD đã mang đến những dấu hiệu hồi phục cho nền kinh tế nhưng vẫn chưa thể kéo tổng kim ngạch thương mại đạt mức tăng trưởng tốt như năm 2017.
Trong 11 tháng năm 2018, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ sự tăng trưởng không đồng đều. Những mặt hàng như điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và xơ sợi dệt các loại vẫn là những sản phẩm chủ lực của Việt Nam vào thị trường này, tuy vẫn giữ được xu hướng tăng trưởng nhưng tốc độ chậm hơn so với cùng kỳ năm trước nên có dấu hiệu giảm sút về mặt số liệu, điện thoại linh kiện giảm 16,1%, máy vi tính và sản phẩm điện tử giảm 51,4% và xơ sợi dệt các loại giảm 1,7%.
Trong khi đó, các sản phẩm khác như hàng dệt may, giày dép các loại tăng trưởng ổn định từ đầu năm đến nay, lần lượt tăng 15,4% và 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái, góp phần nào giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Thổ không bị sụt giảm đáng kể so với cùng kỳ. Ngoài ra, một số sản phẩm như sản phẩm từ chất dẻo, gạo, sắt thép các loại hay nguyên phụ liệu dệt may, da giày cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước nhưng tỉ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn chưa đáng kể so với các nhóm sản phẩm kể trên.
Bên cạnh đó, các sản phẩm nông lâm sản như cao su, sản phẩm từ cao su, gỗ và sản phẩm gỗ hay hạt tiêu vẫn tiếp tục tăng trưởng ổn định nhưng chưa đạt được mức tăng trưởng bằng năm 2017. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ dự báo sẽ dần ổn định vào cuối năm nay và sẽ tăng trưởng trở lại trong năm 2019.
Các mặt hàng xuất khẩu chính từ Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỹ trong 11 tháng năm 2018
Sản phẩm | Kim ngạch xuất khẩu (USD) | So với cùng kỳ năm 2017 (%) | Tỷ trọng (%) |
Điện thoại các loại và linh kiện | 616.540.570 | -16,1 | 46,19 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 233.391.767 | -51,4 | 17,49 |
Xơ, sợi dệt các loại | 142.242.780 | -1,7 | 10,66 |
Hàng dệt, may | 42.430.313 | 15,4 | 3,18 |
Giày dép các loại | 34.484.062 | 12,2 | 2,58 |
Cao su | 33.752.807 | -10,2 | 2,53 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác | 31.873.549 | -30,7 | 2,39 |
Phương tiện vận tải và phụ tùng | 12.767.423 | -16,9 | 0,96 |
Gỗ và sản phẩm gỗ | 9.783.801 | -28,0 | 0,73 |
Hàng thủy sản | 7.772.082 | 0,1 | 0,58 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 7.164.468 | 73,9 | 0,54 |
Hạt tiêu | 7.005.858 | -62,0 | 0,52 |
Sản phẩm từ cao su | 5.080.565 | -19,8 | 0,38 |
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày | 4.100.768 | 8,3 | 0,31 |
Gạo | 2.797.903 | 308,2 | 0,21 |
Sắt thép các loại | 2.351.506 | 118,1 | 0,18 |
Chất dẻo nguyên liệu | 964.570 | -62,0 | 0,07 |
Chè | 616.836 | -55,1 | 0,05 |
Tổng cộng | 1.334.687.491 | -22,8 |
|
Nguồn: Hải quan Việt Nam
Về nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ, trong 11 tháng năm 2018, tổng kim ngạch nhập khẩu vào Việt Nam đạt 257,96 triệu USD, tăng tới 26,3% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, các mặt hàng chủ yếu vẫn là máy móc thiết bị, vải các loại và dược phẩm. Các mặt hàng khác như các sản phẩm hóa chất, quặng và khoáng sản cùng các sản phẩm từ chất dẻo cũng đạt mức tăng trưởng tốt so với giai đoạn 2017. Ngược lại mặt hàng có tỷ trọng cao nhất là máy móc thiết bị đang có xu hướng giảm dần, giảm 13% so với 11 tháng năm 2017. Ngoài ra, dược phẩm và nguyên phụ liệu thuốc lá cũng giảm sút so với năm trước.
Số liệu nhập khẩu các mặt hàng chính từ Thổ Nhĩ Kỳ trong 11 tháng năm 2018
Mặt hàng | Kim ngạch NK 10T/2018 (USD) | So với cùng kỳ năm 2017 (%) | Tỷ trọng (%) |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác | 45.814.379 | -13,0 | 17,8 |
Vải các loại | 36.869.777 | 22,0 | 14,3 |
Dược phẩm | 10.709.542 | -29,3 | 4,2 |
Sản phẩm hóa chất | 8.731.173 | 25,6 | 3,4 |
Quặng và khoáng sản khác | 6.147.063 | 6,8 | 2,4 |
Sản phẩm từ chất dẻo | 4.726.656 | 27,0 | 1,8 |
Nguyên phụ liệu thuốc lá | 2.778.866 | -8,2 | 1,1 |
Sắt thép các loại | 1.764.897 | -3,1 | 0,7 |
Tổng cộng | 257.963.437 | 26,3 |
|
Nguồn: Vietnamexport.com
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, năm 2018 cả nước nhập khẩu 13,53 triệu tấn sắt thép, trị giá 9,89 tỷ USD, giảm 9,7% về lượng nhưng tăng 9,7% về kim ngạch so với năm 2017.
Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Campuchia tháng 12/2018 đạt 347.471.328 triệu USD, tăng 4,3% so với tháng 11/2018 nâng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này năm 2018 lên 3,7 tỷ USD, tăng 34,76% so với năm 2017.
Hoạt động xuất nhập khẩu tháng cuối cùng năm ngoái sụt giảm nhẹ và bị thâm hụt thương mại là những nét đáng chú ý về hoạt động xuất nhập khẩu tháng 12/2018 vừa được Tổng cục Hải quan công bố.
Từ vị trí là mặt hàng xuất khẩu khiêm tốn lại đang là động lực mới cho phát triển nông nghiệp và nông thôn khi các ngành hàng khác đã tới hạn hoặc có dấu hiệu chững lại… mặt hàng rau quả tiếp tục lập kỷ lục mới về doanh số xuất khẩu và tái lập kỳ tích vượt dầu thô trong xuất khẩu.
Các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực có mức tăng thêm từ vài trăm triệu USD đến hàng tỷ USD giúp tổng kim ngạch xuất khẩu năm ngoái tiếp tục tăng trưởng hai con số.
Vụ Thị trường châu Á - châu Phi (Bộ Công thương) cho biết, năm 2018, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước khu vực châu Phi đạt khoảng 6,6 tỷ USD.
Kết thúc năm 2018 thương mại giữa Việt Nam và Philippines đạt 4,7 tỷ USD tăng gấp 2,1 lần (tức tăng 181,56%) so với năm 2017, theo đó Việt Nam đã xuất siêu sang Philippines đạt trên 2,2 tỷ USD, tăng 31,79%.
Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. Hiện Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam.
Năm 2018 lượng xăng dầu cả nước nhập khẩu giảm 11% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 11,43 triệu tấn, trị giá 7,64 tỷ USD, tăng 8,6%.
Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu (TĂCN & NL) trong tháng 12/2018 đạt 372 triệu USD, tăng 16,74% so với tháng trước đó và tăng 53,43% so với cùng tháng năm ngoái.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự