Sau khi sụt giảm kể từ đầu năm đến tháng 3/2019, nay sang tháng 4/2019 nhập khẩu phân bón của cả nước đã tăng trở lại cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 35,6% và 43,9%, đạt tương ứng 389,3 nghìn tấn, trị giá 109,6 triệu USD.

Vải có xuất xứ từ Trung Quốc được nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất, chiếm tới 57,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu vải của cả nước.
Theo tính toán từ số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu vải may mặc các loại vào Việt Nam tăng tháng thứ 2 liên tiếp. Cụ thể, tháng 3/2019 tăng mạnh 71,9%, tháng 4/2019 tăng tiếp 11,5% so với tháng 3/2019 và cũng tăng 9,8% so với tháng 4/2018, đạt 1,21 tỷ USD.
Tính chung cả 4 tháng đầu năm 2019 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng vải đạt 4,08 tỷ USD, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 5,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa các loại của cả nước.
Vải có xuất xứ từ Trung Quốc được nhập khẩu về Việt Nam nhiều nhất, chiếm tới 57,3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu vải của cả nước, đạt gần 2,34 tỷ USD, tăng nhẹ 16,7% so với cùng kỳ năm 2018; Trong đó, riêng tháng 4/2019 nhập khẩu từ thị trường này đạt 735,78 triệu USD, tăng 22,3% so với tháng liền kề trước đó và cũng tăng 19,2% so với cùng tháng năm 2018.
Nhập khẩu từ thị trường Hàn Quốc trong tháng 4/2019 đạt 166,59 triệu USD, giảm 0,4% so với tháng 3/2019 và cũng giảm 6,2% so với tháng 4/2018; tính chung cả 4 tháng đầu năm cũng giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 641,62 triệu USD, chiếm 15,7% trong tổng kim ngạch.
Nhập khẩu từ thị trường Đài Loan trong tháng 4/2019 mặc dù giảm 6,4% so với tháng 3/2019 nhưng tăng 1,8% so với tháng 4/2018, đạt 143,52 triệu USD; nâng kim ngạch cả 4 tháng đầu năm lên 518,07 triệu USD, chiếm 12,7%, tăng 0,9% so với cùng kỳ.
Vải xuất xứ từ thị trường Nhật Bản nhập khẩu về Việt Nam 4 tháng đạt 237,19 triệu USD, chiếm 5,8% trong tổng kim ngạch, tăng 10,2%. Riêng tháng 4/2019 đạt 63,05 triệu USD, giảm 1,5% so với tháng 3/2019 và giảm 2,9% so với tháng 4/2018.
Trong 2 tháng đầu năm nay, nhập khẩu vải may mặc về Việt Nam tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước ở một số thị trường sau: Anh tăng 60,2%, đạt 6,23 triệu USD; Italia tăng 41,7%, đạt 33,38 triệu USD; Pháp tăng 16,4%, đạt 3,52 triệu USD. Ngược lại, nhập khẩu vải sụt giảm mạnh ở các thị trường: Pakistan giảm 32,6%, đạt 10,53 triệu USD; Đức giảm 27,3%, đạt 12,59 triệu USD; Hồng Kông giảm 24%, đạt 56,07 triệu USD; Bỉ giảm 23,3%, đạt 0,91 triệu USD.
Nhập khẩu vải may mặc 4 tháng đầu năm 2019
ĐVT: USD
Thị trường |
T4/2019 | +/- so tháng 3/2019 (%) |
4T/2019 | +/- so với cùng kỳ năm trước (%) |
Tổng kim ngạch NK | 1.207.038.981 | 11,53 | 4.078.981.838 | 8,39 |
Trung Quốc đại lục | 735.780.615 | 22,31 | 2.336.958.587 | 16,68 |
Hàn Quốc | 166.586.425 | -0,41 | 641.623.884 | -4,13 |
Đài Loan (TQ) | 143.519.933 | -6,37 | 518.067.704 | 0,92 |
Nhật Bản | 63.054.914 | -1,48 | 237.194.890 | 10,21 |
Thái Lan | 22.350.380 | -12,34 | 83.416.133 | -6,85 |
Hồng Kông (TQ) | 18.860.455 | 24,39 | 56.065.681 | -23,96 |
Italia | 9.806.322 | -13,9 | 33.377.030 | 41,72 |
Malaysia | 9.801.597 | 12,5 | 32.359.993 | 10,52 |
Ấn Độ | 7.357.909 | 56,88 | 23.515.101 | 0,13 |
Indonesia | 4.212.401 | -6,35 | 20.433.494 | -3,82 |
Thổ Nhĩ Kỳ | 4.873.422 | 95,87 | 13.318.729 | 5,54 |
Đức | 2.885.035 | -28,98 | 12.587.096 | -27,34 |
Pakistan | 3.605.332 | 61,78 | 10.526.672 | -32,59 |
Mỹ | 2.195.805 | -15,15 | 8.545.535 | 7,6 |
Anh | 1.217.943 | -39,92 | 6.231.818 | 60,23 |
Campuchia | 798.530 | -39,63 | 5.141.494 |
|
Pháp | 843.102 | -24,41 | 3.524.684 | 16,37 |
Thụy Sỹ | 676.045 | 339,23 | 1.573.617 | -6,29 |
Singapore | 181.943 | -72,49 | 1.167.518 | -22,44 |
Bỉ | 128.187 | -71,26 | 909.979 | -23,25 |
Philippines |
|
| 55.178 | -19,22 |
(* Tính toán từ số liệu của TCHQ)
Theo Vinanet.vn
Sau khi sụt giảm kể từ đầu năm đến tháng 3/2019, nay sang tháng 4/2019 nhập khẩu phân bón của cả nước đã tăng trở lại cả về lượng và trị giá, tăng lần lượt 35,6% và 43,9%, đạt tương ứng 389,3 nghìn tấn, trị giá 109,6 triệu USD.
Mặc dù tỷ trọng từ hai thị trường Bỉ và Nhật Bản chỉ chiếm 0,4% và 3,6%, nhưng so với cùng kỳ kim ngạch nhập khẩu từ những thị trường lại tăng vượt trội, đạt lần lượt 97,49% và 59,26%.
Tuy là thị trường chỉ chiếm 0,2% tỷ trọng trong 4 tháng đầu năm 2019, nhưng tốc độ nhập khẩu sản phẩm giấy từ thị trường Singpaore tăng vượt trội 39,32% so với cùng kỳ 2018.
Hóa chất nhập khẩu nhiều nhất từ thị trường Trung Quốc, chiếm 30,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt 517,8 triệu USD.
Điện thoại nhập khẩu về Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc.
Tháng 4/2019 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu tăng 10,4% so với tháng trước đó – đây là tháng tăng thứ hai liên tiếp, nâng kim ngạch nhóm hàng này trên 202 triệu USD, đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước 0,25%.
4 tháng đầu năm, nhập khẩu quặng và khoáng sản tăng mạnh 59,8% về lượng và tăng 62,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Kết thúc năm 2018, ngành thép đã có một năm xuất khẩu bội thu, khi giá trị xuất khẩu chỉ tính riêng sắt thép các loại đã tăng thêm gần 1,5 tỷ USD so với năm 2017, mặc dù hàng loạt vụ phòng vệ thương mại đối với các sản phẩm sắt thép xuất khẩu.
Mặc dù 4 tháng đầu năm 2019 xuất khẩu hạt điều của cả nước thu về trên 900 triệu USD, nhưng ngược lại cũng phải nhập khẩu 482 triệu USD mặt hàng này, số liệu từ TCHQ.
4 tháng đầu năm 2019, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày của cả nước đạt gần 1,86 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2018.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự