Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2019 cả nước nhập khẩu 1,94 triệu tấn nguyên liệu nhựa, trị giá 2,86 tỷ USD, tăng 15,4% về lượng và tăng 6,3% về kim ngạch so với 4 tháng đầu năm 2018.

Số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Thụy Sỹ trong tháng 3/2019 đạt 11,4 triệu USD, giảm mạnh tới 43,6% so với tháng 2/2019. Tuy nhiên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này trong cả quý 1/2019 vẫn tăng nhẹ 0,7% đạt 46,6 triệu USD.
Theo số liệu của Hải quan Thụy Sỹ, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Thụy Sỹ và Việt Nam trong khoảng 5 năm trở lại đây đạt hơn 7,9 tỷ Franc Thụy Sỹ (CHF), trong đó Việt Nam là nước xuất siêu. Nếu như kim ngạch thương mại hai chiều các năm 2013-2015 đạt trung bình hơn 1 tỷ CHF thì đến 2016-2017 tăng lên 2 tỷ CHF. Thụy Sỹ là nhà đầu tư châu Âu lớn thứ ba tại Việt Nam với tổng vốn FDI đạt gần 2 tỷ USD. Trong giai đoạn 2017-2020, Chính phủ Thụy Sỹ cam kết viện trợ 90 triệu francs vốn ODA cho Việt Nam.
Số liệu thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Thụy Sỹ trong tháng 3/2019 đạt 11,4 triệu USD, giảm mạnh tới 43,6% so với tháng 2/2019. Tuy nhiên tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này trong cả quý 1/2019 vẫn tăng nhẹ 0,7% đạt 46,6 triệu USD.
Đặc điểm của thị trường Thụy Sỹ là hàng hóa nhập khẩu phải đảm bảo yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và tính nhân văn. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất hàng hóa xuất khẩu phải nghiêm túc đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái và tuyệt đối không xử dụng lao động trẻ em trong các dây chuyền sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Thụy Sỹ là: hàng thủy sản, giày dép các loại, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, và nhiều hàng hóa khác…Trong đó, giày dép các loại xuất đi trong tháng 3/2019 có trị giá tăng mạnh nhất với 146,2% so với tháng trước đó, đạt 919.247 USD. Tuy vậy, mức tăng này không đủ để kéo trị giá xuất khẩu của cả quý 1 tăng lên. Mặt hàng này trong quý 1/2019 vẫn sụt giảm 0,16% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 5,1 triệu USD.
Trong tháng 3/2019, một số mặt hàng cũng có trị giá tăng mạnh như: sản phẩm từ chất dẻo (+135,4%) đạt 147.709 USD; túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù (+128,7%) đạt 524.689 USD; sản phẩm từ sắt thép (+121,3%) đạt hơn 1 triệu USD…
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là nhóm hàng chiếm 12,25% tỷ trọng xuất khẩu trong 3 tháng đầu năm 2019, đạt 5,7 triệu USD, tăng mạnh nhất 76,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản phẩm từ chất dẻo trong quý 1 cũng tăng 59,4% so với cùng kỳ, đạt 422.558 USD.
Quý đầu của năm 2019, Thụy Sỹ đã giảm nhập khẩu các mặt hàng như: dệt, may (-42,5%) đạt 1,8 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ (-20,4%) đạt 802.268 USD; hàng thủy sản (-14,3%) đạt 5,8 triệu USD.
Hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Thụy Sỹ quý I năm 2019
Mặt hàng | 3T/2019 | +/- so với cùng kỳ 2018 (%)* |
Trị giá (USD) | Trị giá | |
Tổng | 46.640.838 | 0,68 |
Hàng thủy sản | 5.858.268 | -14,28 |
Hàng rau quả | 1.321.371 |
|
Cà phê |
|
|
Than đá |
|
|
Sản phẩm từ chất dẻo | 422.558 | 59,37 |
Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù | 1.278.318 | -8,67 |
Gỗ và sản phẩm gỗ | 802.268 | -20,37 |
Hàng dệt, may | 1.815.555 | -42,48 |
Giày dép các loại | 5.129.995 | -0,16 |
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm |
|
|
Sắt thép các loại |
|
|
Sản phẩm từ sắt thép | 2.311.325 | 27,50 |
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện | 5.711.369 | 76,57 |
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác | 3.922.357 | -12,54 |
Hàng hóa khác | 18.067.453 |
|
(*Tính toán số liệu từ TCHQ)
Quan hệ hai nước trong thời gian qua không ngừng tiến triển trên nhiều lĩnh vực. Hai bên tích cực phối hợp trên các diễn đàn quốc tế, đặc biệt trong khuôn khổ ASEAN, ASEM, Francophonie. Thụy Sỹ ủng hộ Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020-2021 và Việt Nam ủng hộ Thụy Sỹ ứng cử viên vào Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2023-2024. Cơ chế tham khảo chính trị và nhân quyền cấp vụ trưởng của hai Bộ Ngoại giao được tiến hành đều đặn hàng năm.
Cùng với chính sách đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, việc Thụy Sỹ là nền kinh tế mạnh, ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới là những thuận lợi cơ bản cho phát triển quan hệ kinh tế, thương mại và công nghiệp giữa Việt Nam và Thụy Sỹ.
Theo Vinanet.vn
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 4 tháng đầu năm 2019 cả nước nhập khẩu 1,94 triệu tấn nguyên liệu nhựa, trị giá 2,86 tỷ USD, tăng 15,4% về lượng và tăng 6,3% về kim ngạch so với 4 tháng đầu năm 2018.
Sau hai tháng đầu năm giảm liên tiếp, thì kim ngạch xuất khẩu đá quý, kim loại quý đã lấy lại đà tăng trưởng ở tháng 3/2019 nhưng sang tháng đến tháng 4 xuất khẩu nhóm hàng này kim ngạch suy giảm nhẹ 1,9% so với tháng trước đó.
Sản xuất LPG trong nước được cung cấp từ Nhà máy GPP Dinh Cố và Nhà máy lọc dầu Dung Quất với sản lượng hơn 750.000 tấn/năm, mới chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu LPG, do đó, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn LPG để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Theo tính toán từ số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng giày dép ra thị trường nước ngoài tăng tháng thứ 2 liên tiếp, tháng 3/2019 tăng 53,4%, tháng 4/2019 tăng tiếp 11,2%, đạt 1,46 tỷ USD, so với tháng 4/2018 cũng tăng 15,7%.
4 tháng đầu năm 2019, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ đạt 4,4 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Trong 4 tháng đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Ai Cập tăng trưởng nhẹ 14,76% đạt 157,5 triệu USD. Trong các nhóm sang xuất sang Ai Cập, sắt thép các loại là nhóm hàng tăng khá về lượng 113,3% đạt 1.395 tấn và tăng 62,53% về trị giá đạt 930.714 USD. Hạt điều cũng tăng 88,99% về lượng đạt 824 tấn và tăng 69,67% về kim ngạch đạt 6,79 triệu USD. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là nhóm hàng có thị phần cao nhất với 24,29% đạt 38,25 triệu USD, tăng 13,42% so với cùng kỳ năm 2018.
4 tháng đầu năm 2019, cán cân thương mại Việt Nam thặng dư 13,47 tỷ USD trong thương mại hàng hóa với Mỹ, tăng 30,7% so với cùng kỳ năm 2018.
Sau khi tăng trưởng ở tháng 3/2019, thì nay sang tháng 4/2019 xuất khẩu sản phẩm mây, tre, cói và thảm kim ngạch sụt giảm trở lại, giảm 6,8% so với tháng 3/2019 xuống còn 37,16 triệu USD, nhưng nếu tính chung 4 tháng đầu năm 2019 tăng 40,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 144,71 triệu USD.
Thái Lan là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong ASEAN với kim ngạch thương mại song phương năm 2018 đạt hơn 17 tỷ USD và phấn đấu đạt 20 tỷ USD vào năm 2020.
Tuy là mặt hàng kim ngạch nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2019 chỉ đạt trên 45 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ 2018 tốc độ nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử từ Ấn Độ của Việt Nam tăng trưởng vượt trội.
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự