Trước hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã và sẽ được ký kết, các DN logistics trong nước phải tìm cách nâng cao năng lực, cơ sở hạ tầng, đầu tư thêm dịch vụ mới...

Cây chè được coi là cây có hiệu quả kinh tế cao so với các cây trồng khác, đóng vai trò xoá đói giảm nghèo và góp phần quan trọng để làm giàu cho địa phương. Không những thế, hiện nay, chè đang là một trong những nhóm hàng xuất khẩu quan trọng của nông sản Việt Nam. Để ngành chè phát huy thế mạnh xuất khẩu thì cần có những giải pháp phát triển bền vững và hiệu quả hơn nữa.
Thực trạng sản xuất chè ở Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), năm 2014, xuất khẩu chè chính ngạch của nước ta đạt 133.000 tấn, thu về 230 triệu USD và là nước đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu chè (sau Trung Quốc, Ấn Độ, Kenya và Sri Lanka). Mặc dù lượng xuất khẩu lớn như vậy, nhưng do chè Việt Nam chủ yếu xuất thô nên kim ngạch xuất khẩu chưa cao, giá chè xuất khẩu của nước ta lại chỉ bằng một nửa so với giá chè bình quân trên thế giới.
6 tháng đầu năm 2015, xuất khẩu chè ước đạt 54 nghìn tấn với giá trị đạt 90 triệu USD, giảm 6,7% về khối lượng và giảm 4,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2014.
Hiện nay, Lâm Đồng là tỉnh có diện tích trồng chè lớn nhất với 21.900 ha. Tiếp đó là Thái Nguyên với 20.800 ha, Hà Giang 20.500 ha, Phú Thọ 16.300 ha, Yên Bái 11.500 ha. Năng suất chè cả nước bình quân đạt 83,4 tạ búp tươi/ha, tăng 7,9% so với năm 2011. Sản lượng chè búp tươi đạt 926.600 tấn, lượng chè chế biến đạt trên 200.000 tấn chè khô.
Tuy nhiên, những năm gần đây, sản xuất chè hiện nay vẫn năng suất thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Phân tích nguyên nhân của thực trạng này, các nhà quản lý và chuyên gia cho rằng, đó là do sản xuất còn manh mún, tổ chức sản xuất chè chưa tốt, thiếu liên kết với thị trường; người dân thiếu kiến thức; quản lý thuốc BVTV còn nhiều bất cập; tổ chức theo dõi và kiểm tra đánh giá ATTP còn lỏng lẻo, không quản lý tận gốc.
Ông Phạm Đồng Quảng, Cục trưởng Cục Trồng trọt thẳng thắn nhìn nhận: Ngành chè quy mô sản xuất nhỏ, bình quân khoảng 0,2 ha/hộ nên rất khó tiếp cận các thiết bị kỹ thuật mới và chứng nhận chè an toàn. Nhiều cơ sở chế biến được cấp giấy phép sản xuất, nhưng không có vùng nguyên liệu; trình độ tay nghề chế biến thấp, chất lượng chè không cao.
“Một trong những điểm yếu của ngành chè Việt còn là cơ cấu sản phẩm chè chủ yếu là chè đen. Thêm vào đó, việc các doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu chè càng khiến chè của Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này dẫn tới giá chè xuất khẩu của Việt Nam thấp, giá trị gia tăng rất hạn chế”, ông Quảng nói.
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới có thể giúp cho việc xuất khẩu trở nên dễ dàng hơn do các hàng rào thuế quan dần được gỡ bỏ, nhưng đồng thời lại bị hạn chế bởi việc xuất hiện thêm nhiều hàng rào kỹ thuật khắt khe, đặc biệt là vấn đề an toàn thực phẩm đối với các mặt hàng nông sản.
Một số giải pháp phát triển ngành chè bền vững và hiệu quả
Để phát triển ngành chè một cách bền vững và hiệu quả, phải kiên quyết thay đổi cách thức sản xuất để cây chè đạt tiêu chuẩn ATTP phục vụ tiêu dùng trong nước và đáp ứng xuất khẩu. Giải pháp trước mắt cũng như lâu dài là ngành chè cần rà soát và điều chỉnh quy hoạch sản xuất gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, phát triển các giống chè mới năng suất, chất lượng cao thay thế các giống chè cũ; đổi mới công nghệ chế biến, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, gia tăng giá trị trong sản xuất chè.
Về phía Bộ NN&PTNT, sẽ chấn chỉnh quản lý Nhà nước, đặc biệt về quản lý BVTV, phân bón, tăng cường thanh tra giám sát để tránh hàng giả, hàng kém chất lượng; tăng cường hệ thống BVTV cấp xã kết hợp với phát huy vai trò của các hiệp hội, đoàn thể tại địa phương để tạo ra thói quen sản xuất an toàn cho cây trồng nói chung và sản xuất chè nói riêng. Trong đó, một trong những biện pháp thiết thực nhất được tính tới là Bộ NN&PTNT sẽ cấp mã số cho vùng chè nguyên liệu để truy xuất nguồn gốc trong thời gian tới. Đây là cách thức có thể vực dậy ngành chè theo hướng chuyên nghiệp hóa sản xuất, xây dựng thương hiệu và thu hút doanh nghiệp cùng chung tay phát triển thương hiệu chè Việt Nam.
Thực tế chứng minh, nhờ quản lí tốt đầu vào, đầu ra, quy trình kỹ thuật mà sản phẩm chè của các DN chè như: Cty Chè Hà Tĩnh, Phú Đa, Phú Bền (Phú Thọ), Biển Hồ (Kon Tum) và một số DN có 100% vốn nước ngoài luôn được đối tác đặt cọc tiền trước, giá bán cao gấp rưỡi giá chè bình quân của VN. Nhờ đó, đời sống thu nhập của người dân tại các vùng chè ngày một nâng cao.
Ông Fla-vi-ô Cô-sin (Flavio Corsin), Giám đốc chương trình Việt Nam của Tổ chức Sáng kiến thương mại bền vững (IDH) của Hà Lan cho rằng, để phát triển bền vững, ngành chè Việt cần thành lập Ban điều phối dựa trên mô hình Ban điều phối ngành cà phê. Bên cạnh đó, các nhà máy có hiệu quả sản xuất hạn chế (nhà máy xếp loại C) phải được cảnh báo, được tập huấn để nâng cấp lên loại A, B. Nếu các nhà máy này không đạt được loại A, B trong một thời gian nhất định thì nên bị đóng cửa.
Bên cạnh đó, một số chuyên gia nông nghiệp cho rằng, ngành chè cần tổ chức nông dân theo hình thức hợp tác xã hoặc hội sản xuất và gắn két nông dân với DN để xây dựng một chuỗi ngành hàng chuyên nghiệp. Vì vậy, việc nhanh chóng thúc đẩy thành lập Ban điều phối ngành hàng chè được kỳ vọng là “chìa khóa” thay đổi quan hệ sản xuất, nâng vị thế của người nông dân. Theo đó, Ban điều phối sẽ có sự tham gia của nông dân, doanh nghiệp, các tổ chức nước ngoài và các cơ quan quản lý nhà nước theo tỷ lệ công – tư.
Một trong những giải pháp cơ bản nữa là phải tuyên truyền đẩy mạnh đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho nguyên liệu chè búp tươi bằng cách thực hiện VietGAP/GAP ở tất cả vùng trồng chè trên quy mô toàn quốc. Hiện có một số vùng trồng chè đã áp dụng quy trình VietGAP, UTZ Certified hoặc Rainforest Alliance nên đã có thể phòng ngừa được những nguy cơ nhiễm chất độc hại vào chè búp tươi. Việc này đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh ngay từ khi chè được thu hái sẽ có ý nghĩa quyết định tới đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản phẩm chè.
PV. (TỔNG HỢP)
Theo Tạp Chí Tài Chính
Trước hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã và sẽ được ký kết, các DN logistics trong nước phải tìm cách nâng cao năng lực, cơ sở hạ tầng, đầu tư thêm dịch vụ mới...
Theo Dự thảo Phân bổ vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 vừa được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến đầu tuần này, những ngành, lĩnh vực có dự án theo hình thức đối tác công tư (PPP) được ưu tiên số một.
Bộ Xây dựng vừa có văn bản báo cáo về việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tại Phiên họp Chính phủ tháng 8/2015.
Theo Dự thảo Quyết định về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn từ 2016 đến năm 2020 vừa được Bộ Công Thương công bố, các dự án đầu tư dây chuyền máy móc, thiết bị để sản xuất các sản phẩm cơ khí trọng điểm sẽ được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước.
Ấn Độ không nằm trong những nước tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), tuy nhiên, khi đầu tư tại Việt Nam, ngành công nghiệp dệt may của Ấn Độ sẽ có nhiều cơ hội hưởng lợi gián tiếp từ TPP.
Trong buổi trao đổi trực tuyến với bạn đọc Dân trí chiều 26/8, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân thẳng thắn thừa nhận: “Trong thời gian vừa qua có một số cá nhân nghiên cứu chế tạo tàu ngầm, máy bay nhưng chưa nhận được sự hỗ trợ cần thiết của cơ quan chức năng”
Kamaz, nhà sản xuất xe tải lớn nhất nước Nga, tuyên bố rất coi trọng thị trường Việt Nam; nhiều dòng sản phẩm của hãng là xe lưỡng dụng, không phải xe quân sự nhưng có thể chuyển đổi để phục vụ cả hai mục đích dân sự và quân sự.
Từ cuối năm 2014 trở về trước, Việt Nam phải nhập khẩu 98% nguyên liệu cho sản xuất vật liệu nổ công nghiệp, trong đó, chủ yếu nhập khẩu Amoni Nitorat. Tuy nhiên, nhà máy sản xuất được tiền chất này đã bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2015 với công suất vượt cầu.
“Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công trình trong thời gian xây dựng”. Đó là quy định tại Dự thảo Nghị định quy định bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng đang được Bộ Tài chính đưa ra lấy ý kiến rộng rãi trước khi trình Chính phủ ban hành.
Vận tải đường sắt được quy hoạch phát triển theo hướng đồng bộ về kết cấu hạ tầng, phương tiện, dịch vụ vận tải và công nghiệp đạt trình độ tiên tiến, hiện đại, chất lượng cao, chi phí hợp lý, nhanh, an toàn...
Kinh tế vĩ mô
Kinh tế Thế giới
Nông lâm thủy sản
Hàng hóa
Thông tin ngành
Chính khách - Yếu nhân
Quân sự - Chiến sự